CHÂU Á THẦN KỲ - THIÊN SỬ THI VỀ HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM SỰ THỊNH VƯỢNG CỦA CHÂU Á - Trang 343

Lịch sử đau thương này khiến các nhà lãnh đạo Ấn Độ có tư tưởng ngờ vực các
công ty nước ngoài, thương mại quốc tế và, ở một chừng mực nào đó, nghi ngờ
chính doanh nghiệp tư nhân. Động cơ tìm kiếm lợi nhuận bị xem là thấp hèn và
nguy hiểm. Nhìn chung, không thể tin tưởng được rằng doanh nghiệp tư nhân sẽ
hành động vì lợi ích tốt nhất của quốc gia. Nhà nước cần phải giữ họ đi đúng
đường và bảo vệ cho người nghèo. Tư tưởng của Nehru được củng cố bằng sức
mạnh toàn cầu trong những năm 50 của Liên Xô, quốc gia mà nền kinh tế kế
hoạch tập trung có vẻ như tạo ra sự công nghiệp hóa và sự tự cung tự cấp trên
phạm vi toàn quốc nhanh mà không cần phải trải qua giai đoạn chủ nghĩa tư
bản. Cũng giống như Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Nehru và các nhà kinh tế
quanh ông tin rằng kế hoạch tập trung của nhà nước thực sự tạo ra những kết
quả kinh tế tốt hơn, phân bổ nguồn lực quốc gia hiệu quả hơn và nâng cao đời
sống của người nghèo nhanh hơn các thị trường tự do. Nehru cho rằng chỉ có
nhà nước mới có thể xóa được tình trạng đói nghèo vốn làm ông trăn trở, xót xa.
Nehru tạo ra một hệ thống dứt khoát chống lại sự toàn cầu hóa từ trong bản chất.
Tư tưởng của Nehru đóng vai trò chủ đạo trong giới phát triển vào thập niên 50
lớn hơn nhiều so với lối nghĩ của Lý Quang Diệu ở Singapore, Park Chung Hee
ở Hàn Quốc và nhiều nhà lãnh đạo khác của Phép màu. Sản xuất trong nước để
thay thế cho hàng nhập khẩu, định kiến với xuất khẩu, sự can thiệp mạnh của
nhà nước và chủ nghĩa bảo hộ, tất cả đều là những khái niệm phổ biến thời đó.

Các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ đã đưa những khái niệm này sang một

hướng cực đoan: Giấy phép Raj. Các hành động kiểm soát được cho là cần thiết
nhằm ngăn không cho xảy ra tình trạng các doanh nghiệp lớn cát cứ độc quyền
trong các ngành nghề kinh doanh; nhằm nuôi dưỡng những công ty quy mô nhỏ
và nhằm đảm bảo sự phát triển đồng đều ở khắp cả nước. Tuy vậy, cơn ác mộng
quan liêu vốn là kết quả của các hành động kiểm soát đó cuối cùng chẳng giúp
đạt được bất kỳ một thành tố nào trong số những mục tiêu này. Những quy định
hạn chế áp đặt lên đầu tư và sản xuất đã kìm hãm cả công ty lớn lẫn công ty nhỏ
ở một trình độ sản xuất không hiệu quả. Sự tập trung quá mức đến ngành công
nghiệp nặng đã dẫn tới hậu quả là tạo ra rất ít việc làm. Các công ty trong nước
vốn được che chắn bảo vệ khỏi sự cạnh tranh trong nước lẫn nước ngoài, có rất
ít sáng kiến đầu tư vào công nghệ mới hay những cơ sở kinh doanh hiện đại hóa.
Hơn nữa, giống như các doanh nghiệp Trung Quốc, chúng cũng làm ra những

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.