giá thì đó là bởi ta coi chúng chẳng hề có giá trị gì. Kẻ tự do là kẻ sẵn sàng
chết
.”
Chúng tôi xuống đó và thấy con bò chết nằm trong rẫy cà phê, như Nichols
kể; lũ sư tử hầu như chưa đụng tới nó. Dấu chân chúng sâu và rõ trên nền
đất mềm, đêm trước ở đây có cả thảy hai con sư tử lớn. Dễ dàng theo các
vết chân ấy cắt qua rẫy tới tận khoảnh rừng gần nhà Belknap, nhưng lúc
chúng tôi đến đấy thì trời đổ mưa như trút đến nỗi chẳng còn thấy gì, và
dấu con vật mất hút giữa lớp cỏ lau và bụi rậm bìa rừng.
“Anh nghĩ sao, Denys,” tôi hỏi, “liệu đêm nay bọn nó có quay lại không?”
Đã dạn dày kinh nghiệm với sư tử, Denys bảo chúng sẽ quay lại vào chập
tối để ăn nốt, nên chúng tôi sẽ ra rẫy lúc chín giờ cho sư tử có thời gian mê
mải vào con mồi. Chúng tôi sẽ dùng một cây đèn pin từ mớ đồ nghề đi săn
của Denys để rọi sáng, và anh cho tôi tùy chọn vai trò muốn đảm nhiệm,
nhưng tôi chọn việc xách đèn còn chuyện bắn dành phần Denys.
Nhằm tìm tới xác bò trong đêm tối, chúng tôi cắt những băng giấy, buộc
vào hai hàng cây cà phê, tạo thành một dải hành lang, giống cách của Hanzl
và Greti từng làm bằng các viên sỏi trắng
. Lối đi này sẽ dẫn chúng tôi
thẳng tới con mồi, và ở điểm cuối, cách xác bò chừng mười tám thước,
chúng tôi gài vào cây một mảnh giấy to đánh dấu chỗ sẽ dừng bước, bật
đèn và bắn. Tới chiều muộn, đem đèn ra thử, chúng tôi phát hiện pin đã gần
cạn và ánh đèn rất yếu. Chẳng còn thời gian lên Nairobi thay pin, hai người
đành phải bằng lòng với thứ mình hiện có.
Ấy là buổi tối ngay trước ngày sinh nhật Denys, tâm trạng của anh trong
bữa ăn thật ảo não bởi xem những gì từng trải nghiệm vẫn là chưa đủ. Song
từ giờ tới trước sáng mai, tôi an ủi, sẽ có thứ để anh kinh qua đây. Tôi dặn
Jama chuẩn bị sẵn một chai vang lúc chúng tôi quay về. Đầu óc tôi cứ luẩn
quẩn về lũ sư tử, chúng đang ở đâu, ngay thời khắc này? Phải chăng chúng
đang chậm rãi, lặng lẽ vượt sông, con này trước con kia, và quanh ngực hay
sườn chúng, dòng nước lạnh lững lờ đang rẽ đôi?