“Kaninu này,” tôi bảo ông; “khi nào muốn Kabero có thể quay về đồn điền
và nó sẽ không hề hấn gì đâu. Nhưng ông phải đích thân dẫn nó tới gặp
tôi.” Kaninu chết lặng, đầu cúi gằm và ủ rũ dời gót như thể hiện ông đã mất
nốt người bạn cuối cùng trên trần gian.
Tôi cũng xin nói rõ ở đây là Kaninu đã nhớ như in và làm theo những gì
được dặn. Năm năm sau, lúc tôi hầu như đã quên bẵng toàn bộ sự việc, một
ngày nọ, thông qua Farah, ông xin được gặp tôi. Tôi thấy Kaninu đứng bên
ngoài nhà, trên một chân, thần thái rất đường hoàng, nhưng dưới đáy sâu
con tim ông lại thấp thỏm. Kaninu xởi lởi bảo: “Kabero nhà tôi quay về rồi
đấy.” Dạo ấy đã học được nghệ thuật giữ im lặng nên tôi chẳng thốt nửa lời.
Cảm nhận gánh nặng trong thái độ nín thinh của tôi, ông già Kikuyu đổi
chân, mí mắt run run. “Thằng con tôi, Kabero, đã quay về đồn điền,” ông
lặp lại. Tôi hỏi: “Nó rời đám Masai về rồi sao?” Lập tức lấy việc khiến tôi
cất lời là bằng chứng rằng hai bên đã hòa giải, tuy chưa cười nhưng tất tật
nếp nhăn ma mãnh trên mặt Kaninu đã sắp xếp lại cho một nụ cười. “Vâng
thưa Msabu, vâng, nó đã từ chỗ người Masai trở về, ông bảo, “về để làm
việc cho bà.” Trong thời gian Kabero biến mất, chính quyền đã áp dụng
Kipanda, quy định quản lí hộ khẩu đối với dân bản xứ trên khắp cả nước,
nên giờ chúng tôi sẽ phải mời một cảnh sát viên từ Nairobi tới nhằm biến
cậu thành một nhân khẩu hợp pháp trong đồn điền. Kaninu và tôi định ra
một ngày.
Tới ngày đó, Kaninu và con trai có mặt từ rất lâu trước viên cảnh sát.
Kaninu đưa con lại giới thiệu cho tôi với thái độ phấn khởi, tuy nhiên trong
thâm tâm ông hơi e dè cậu con mới tìm lại được này. Kaninu có lí do để
cảm thấy vậy bởi Khu bảo tồn Masai tiếp nhận chú cừu bé bỏng của đồn
điền, và giờ đem trả chúng tôi một con báo trẻ trung. Kabero hẳn phải
mang trong người dòng máu Masai, tập quán và kỉ luật trong cuộc sống
Masai tự chúng không thể làm ra dạng biến hóa cỡ này. Cậu ta đứng đó, từ
đầu đến chân là một chàng Masai thực thụ.