Lắm khi Farah chẳng hứng bàn chuyện dân bản xứ, như thể họ quá thấp
kém để anh phải nhai đi nhai lại, còn tôi cũng phải nghe mãi. Sau cùng
Farah cũng chấp thuận kể tôi nghe, tuy nhiên trong suốt thời gian ấy, ánh
mắt anh hướng ra trời sao bên ngoài cửa sổ, sau lưng tôi. Nguyên do
Kaninu sợ mất mật là bởi mẹ Wainaina, bà phù thủy già ấy, đã yểm bùa ông
ta.
“Nhưng này Farah,” tôi nói, “Kaninu hẳn thừa tuổi và trí khôn để không tin
vào bùa chú chứ nhỉ.”
“Không đâu Memsahib,” Farah chậm rãi. “Tôi nghĩ bà già Kikuyu kia thực
sự làm được những điều ấy đấy.”
Bà ta từng bảo Kaninu đàn bò của ông ta sẽ sống để thấy mọi chuyện nhẽ ra
đã tốt đẹp hơn nếu Kaninu ngoan ngoãn nghe lời giao chúng cho Wainaina
ngay từ đầu. Giờ đây lũ bò của Kaninu đang từng con một bị mù. Và trước
trải nghiệm đớn đau này, con tim Kaninu dần tan nát, giống hệt xương cốt
cơ bắp tôi nhân thời xưa chịu nhục hình bị vật nặng đè lên người cho đến
chết.
Farah nói về ma thuật Kikuyu bằng giọng khô khốc, âu lo, như về bệnh lở
mồm long móng ở đồn điền, thứ bản thân ta sẽ không mắc phải, nhưng lại
khiến chúng tôi mất cả đàn gia súc.
Tối ấy tôi ngồi mãi tới khuya, miên man nghĩ về thuật phù thủy trong đồn
điền. Thoạt tiên nó có bộ dạng thật xấu xí, như thể bất đồ nhỏm dậy từ nấm
mộ cổ, mò tới dí bẹt mũi lên mấy ô cửa sổ nhà tôi. Nghe văng vẳng tiếng
linh cẩu hú gào đằng xa, dưới mạn bờ sông, tôi nhớ ra người Kikuyu cũng
có các ma sói, những bà già hóa ra linh cẩu khi màn đêm buông. Biết đâu
bà mẹ Wainaina giờ đang lóc cóc chạy dọc bờ sông, nhe hàm răng trắng
nhởn trong gió đêm. Tới đây, ma thuật trở nên gần gũi với tôi, như một điều
hợp lẽ; ban đêm, tại Phi châu, có vô số thứ quanh quất bên bạn.
“Bà già đáo để thật,” tôi nhủ thầm bằng tiếng Swaheli, “biết làm phép cho
bò của Kaninu bị mù, lại sai khiến được cả mình nuôi hộ cháu bà ấy mỗi