“Thế chưa đủ,” tôi bảo, “ngặt nỗi gia cảnh tôi cũng túng quẫn chả có tiền.
Nhưng có thể Farah còn chút ít.” Farah có bốn rupee.
Sáng hôm sau, trước rạng đông, tôi nói gia nhân đánh thức Emmanuelson
và làm bữa điểm tâm cho hai chúng tôi. Đêm hôm trước tôi đã quyết định
lấy xe chở anh ta một độ đường chừng mười dặm. Đây chẳng phải thuận lợi
gì nhiều nhặn cho Emmanuelson bởi còn phải cuốc bộ cả tám mươi dặm
nữa, tuy nhiên tôi không nỡ nhìn anh bước thẳng từ ngưỡng cửa nhà mình
vào định mệnh bất định, cạnh đó tôi còn muốn được góp phần vào tấn hài
kịch hoặc bi kịch này. Tôi làm cho Emmanuelson một bọc sandwich, ít
trứng luộc kĩ rồi cùng với đó đưa thêm một chai Chambertin 1906 bởi anh
đã nhận biết được giá trị của nó. Tôi nghĩ đây rất có thể là món đồ uống sau
chót của anh ta trong đời.
Trong ánh bình minh, Emmanuelson nom tựa một xác chết trong truyện cổ
tích với bộ râu mọc tua tủa lúc dưới lòng đất, nhưng lại bước ra khỏi mồ
với thần thái tươi tỉnh, rất điềm tĩnh và đúng mực lúc xe chúng tôi bon bon.
Tới bờ bên kia sông Mbagathi, tôi thả anh xuống. Không khí sớm mai trong
trẻo, trời không một gợn mây. Emmanuelson sẽ theo hướng Tây Nam. Khi
tôi quay qua phía chân trời đối diện, mặt trời vừa ló rạng, đỏ ối: giống lòng
đỏ trứng luộc, tôi thầm nghĩ. Ba hay bốn tiếng nữa, nó sẽ chói lòa, rừng rực
đổ lên đầu kẻ lang thang này.
Emmanuelson cất tiếng tạ từ, bước vài bước, rồi trở lại chào tôi thêm bận
nữa. Từ trong xe nhìn anh, tôi nghĩ, khi cất bước, lòng anh hẳn vui vì vẫn
có một khán giả dõi theo. Tôi tin bản năng sân khấu ở anh mạnh mẽ tới độ,
vào thời khắc này, nhận thức mãnh liệt được rằng mình đang rời sân khấu,
đang biến mất, như thể nhìn bằng con mắt của người khán giả, anh có thể
thấy cảnh bản thân đang cất bước. Emmanuelson rời sàn diễn. Liệu rặng
núi, những cây gai cùng con đường lầm bụi có thể nào không thương cảm
và trong một phút giây không khoác lên mình diện mạo phông giấy bồi vẽ
hậu cảnh nơi sàn diễn?