thời nay vì bản thân đã thiếu thức thời, lại ưa những trường phái càng hiện
đại càng tốt. Anh thích nghe thứ nhạc tân kì nhất. “Anh cũng sẽ ưa
Bethoven,” Denys bảo, “nếu ông ấy đừng thô ráp quá thế.”
Denys và tôi, khi ở cạnh nhau, thường may mắn bắt gặp sư tử. Có những
lần anh trở về sau một chuyến săn bắn dài cả hai hoặc ba tháng, ỉu xìu vì
không sao tìm nổi một con sư tử ra hồn cho mấy vị khách châu Âu anh dẫn
theo. Trong khi ấy người Masai cũng tới nhà nhờ tôi ra bắn hộ một con sư
tử đực hoặc cái đang sát hại bầy gia súc của họ, và Farah cùng tôi đã bỏ
công dựng lều trong manyatta của họ, chầu chực thức cả đêm canh giết con
thú rồi sáng dậy lùng sục bên ngoài mà vẫn chẳng tìm ra dù chỉ một dấu
chân sư tử. Ấy nhưng lúc hai chúng tôi cưỡi ngựa ngoài thảo nguyên, đám
sư tử sẽ quanh quất đâu đó, tựa như chờ sẵn, và chúng tôi sẽ bắt gặp chúng
đương ăn, hay đương băng qua lòng sông khô cạn.
Vào một sáng mùng một đầu năm, trước rạng đông, Denys và tôi đang
phóng xe hết tốc lực để tới Narok trên con đường mới làm còn gồ ghề đá
sỏi.
Hôm trước, sau khi cho người bạn mượn khẩu súng trường cỡ lớn để cầm
lên mạn Nam đi săn, tới buổi tối thì Denys mới sực nhớ đã sơ suất quên chỉ
bạn cách mở khóa cò súng, và anh cứ canh cánh lo bạn sẽ gặp sự chẳng
lành bởi sơ suất này của mình. Sau khi suy đi tính lại, chúng tôi thấy chẳng
có giải pháp nào khác ngoài khởi hành sớm chừng nào hay chừng nấy, theo
đường mới làm, hòng bắt kịp nhóm đi săn ở Narok. Nơi ấy cách sáu mươi
dặm, phải qua vài vùng hiểm trở, còn đoàn săn kia đang di chuyển theo con
đường cũ và sẽ đi khá chậm vì có mấy xe tải chở nặng. Điểm duy nhất
chúng tôi e ngại là không rõ tuyến đường mới có thông tới tận Narok hay
không.
Khí trời sớm mai ở miền cao châu Phi chứa cái giá buốt và trong lành hữu
hình khiến một mường tượng hết lượt này tới lượt khác lại hiện về trong óc:
ta không phải hiện diện trên mặt đất mà ở sâu dưới làn nước tăm tối, và
đang lần theo đáy biển tiến về phía trước. Thậm chí còn chẳng chắc là ta