bỏ, rằng Người nhìn thấy các đốm vuông trên da chúng cũng như hết thảy
mọi thứ khác nữa về chúng. Các hoang thú, thưa quý ngài, là một bằng
chứng khả dĩ về sự tồn tại của Chúa. Nhưng khi chúng tới Hamburg,” ông
đội lại mũ rồi kết luận “lí lẽ ấy trở nên mơ hồ.”
Vốn là người thu xếp đời mình theo ý kiến của những người khác, Bá tước
Schimmelmann giờ bước tiếp trong im lặng tới chiếc hòm nhốt rắn đặt gần
lò sưởi. Để ông vui lòng, người bầu gánh mở nắp hòm, gắng đánh thức lũ
rắn bên trong dậy; mãi sau cùng mấy con bò sát mới chậm chạp, ngái ngủ
quấn quanh tay ông ta. Bá tước Schimmelmann nhìn chằm chằm vào nùi
rắn xoắn xuýt.
“Ái chà, anh bạn Kannegieter thân mến,” ông nhếch mép cười, “giả như
anh làm công cho tôi hay tôi là vua còn anh là bộ trưởng, thì giờ anh hẳn đã
có quyết định sa thải.”
Ông bầu gánh ngơ ngác ngước nhìn vị bá tước. “Thật thế sao, thưa ngài?”
Đoạn cho lũ rắn trườn vào lại trong hòm, sau một thoáng ông hỏi tiếp:
“Nếu được phép xin cho tôi hỏi vì cớ gì?”
“Chà, Kannegieter này, anh không đơn giản như biểu hiện bề ngoài nhỉ,” vị
bá tước bảo. “Sao ư? Là thế này anh bạn ạ: Ác cảm với rắn là bản năng
lành mạnh của con người, ai có được bản năng này thì sống. Rắn là kẻ thù
nguy hiểm nhất của con người, nhưng ngoài bản năng về thiện và ác đâu có
thứ gì mách bảo chúng ta như vậy? Móng vuốt sư tử, kích cỡ thân thể và bộ
ngà của voi, cặp sừng trâu, thảy đều đập ngay vào mắt. Còn rắn lại là loài
vật đẹp đẽ. Chúng tròn trịa, trơn mướt, giống những thứ ta yêu mến trên
đời, màu sắc thì thanh nhã, lại chuyển động hầu êm nhẹ. Duy chỉ với những
người ngoan đạo thì vẻ đẹp cùng cái duyên dáng kia thật đáng ghê tởm, bốc
mùi trầm luân, nhắc nhở họ về sự sa ngã của con người. Có điều gì trong
lòng khiến anh ta phải lánh xa rắn như lánh xa quỷ dữ, và ấy gọi là tiếng
nói lương tâm. Kẻ vuốt ve một con rắn có thể làm bất cứ điều gì.” Bá tước
Schimmelmann cười hài lòng bởi lập luận đầy tính dẫn dắt của mình, cài
khuy tấm áo lông đắt tiền, đoạn quay người dợm bước khỏi dãy lán.