cho một đám nhóc bu quanh, và đấy là lần duy nhất tôi thấy cậu gần như
đang cười.
Có dạo tôi giao vài công việc dưới bếp hoặc trên nhà cho Karomenya làm
thử, nhưng cậu làm không xong và chẳng mấy chốc thấy chán. Việc
Karomenya thích di chuyển các vật nặng, đưa chúng từ chỗ này qua chỗ
khác kia. Dọc con đường dẫn vào nhà tôi có nhiều khối đá vôi trắng nằm
rải rác, và một hôm, được Karomenya giúp một tay, tôi lăn một khối về gần
nhà, đặt nó đối xứng với một tảng khác qua con đường. Hôm sau, trong lúc
tôi ra ngoài, Karomenya tới lăn tất tật đá dồn thành cả đống tướng cạnh
nhà, và tôi chẳng thể tin một người cỡ cậu có thể làm nổi việc đó. Việc ấy
ắt đòi hỏi ở cậu bé một nỗ lực ghê gớm lắm. Tựa như Karomenya biết rõ
chỗ đứng của mình trên cõi đời và bám trụ ở đó chẳng rời. Cậu câm điếc,
song rất khỏe.
Hơn hết thảy Karomenya muốn có một con dao, tuy vậy tôi chẳng dám cho
vì e sợ, trong nỗ lực sống chết giao tiếp với mọi người, cậu có thể dễ dàng
khiến một đứa trẻ ở đồn điền, thậm chí nhiều hơn thế, thiệt mạng. Rồi đây
Karomenya hẳn sẽ có được một con dao của riêng mình bởi ước muốn ấy ở
cậu sục sôi quá, và Chúa biết rõ cậu sẽ dùng nó vào việc gì.
Ấn tượng mãnh liệt nhất tôi gây cho Karomenya là lúc trao cậu cái còi mà
thỉnh thoảng tôi dùng gọi bầy chó. Cầm còi trên tay cậu chẳng mấy hứng
thú nhưng làm theo cách tôi hướng dẫn, đưa còi lên miệng thổi, thấy bầy
chó đổ ào đến từ cả hai phía, Karomenya bị chấn động, mặt sạm đi vì kinh
ngạc. Thử lần nữa, thấy hiệu quả vẫn vậy, Karomenya quay nhìn tôi bằng
đôi mắt sáng rực. Lúc đã quen với cái còi, cậu muốn biết sao nó làm được
như vậy. Nhằm giải đáp thắc mắc này, thay vì xem xét còi, lúc đám chó
nghe tiếng còi phóng lại, Karomenya lại nhướn mắt nhíu mày săm soi từng
con như hòng tìm ra chúng vừa bị tác động vào đâu. Sau bận ấy
Karomenya trở nên thích chó, và năng tới mượn chúng dắt đi chơi. Lúc cậu
nắm sợi dây buộc mấy con chó cất bước rời khỏi nhà, tôi thường chỉ lên
bầu trời đằng Tây, chỗ vầng dương sẽ nằm ở đó cũng là thời điểm cậu phải