trở về, rồi Karomenya cũng giơ tay chỉ vào chỗ ấy và luôn quay về rất đúng
giờ.
Ngày nọ đang cưỡi ngựa, tôi bắt gặp Karomenya cùng bầy chó ở một địa
điểm khá xa nhà, trong Khu bảo tồn Masai. Chẳng thấy tôi, Karomenya
nghĩ cậu đang một mình, không bị ai nhòm ngó. Tại đây cậu thả cho chó
chạy, rồi huýt gọi chúng quay về và lặp đi lặp lại màn biểu diễn ấy ba bốn
bận trong lúc tôi dõi nhìn từ lưng ngựa. Trên thảo nguyên, khi tưởng như
chẳng có ai gần bên, Karomenya buông thả bản thân cho một ý tưởng và
khía cạnh mới mẻ trong cuộc sống.
Cậu thường xỏ cái còi vào một sợi dây rồi đeo lên cổ, một hôm không thấy
còi đâu tôi ra dấu hỏi và Karomenya làm điệu bộ cái còi bị mất rồi. Không
bao giờ hỏi xin cái khác, hoặc cậu nghĩ chẳng thể có được cái thứ hai, hoặc
cậu định tận dụng lần ấy lánh xa một thứ không dành cho mình. Tôi thậm
chí cũng không chắc Karomenya có tự tay ném đi cái còi, do nó mâu thuẫn
với những quan niệm khác của cậu về cuộc đời.
Trong vòng năm hay sáu năm tới, Karomenya hoặc sẽ chịu nhiều dằn vặt
khổ sở, hoặc sẽ đột nhiên được đưa lên thiên đường.