niềm sâu xa; bạn có thể cảm nhận trong đó một thông điệp sống còn đang
đè nặng tâm tư người gửi, khiến anh ta cuốc bộ vượt cả chặng đường xa từ
Khu bảo tồn Kikuyu ra tận bưu cục. Song lời nhắn nhủ này lại bị gói kín
trong tăm tối. Mẩu giấy lấm lem, xấu xí vượt nhiều ngàn dặm để tới được
tay bạn dường như gắng nói, thậm chí cố thét lên với bạn, nhưng lại chằng
hề truyền tải được điều gì.
Tuy nhiên trong vấn đề này, cũng như hầu hết mọi vấn đề, ở Kamante có sự
khác biệt. Cậu luôn có cách thức liên lạc riêng: bỏ cả ba hay bốn lá thư vào
cùng một phong bì, đánh dấu Lá thư thứ nhất, Lá thư thứ hai, cứ vậy. Tất
cả chúng đều cùng một nội dung, lặp đi lặp lại. Bằng cách viết cùng nội
dung, có thể cậu muốn tạo một ấn tượng sâu đậm hơn, cách này cậu vẫn
thường dùng, lúc chuyện trò trực tiếp, nhằm giúp tôi tập trung hiểu hoặc
ghi nhớ một điều cụ thể. Cũng có thể Kamante thấy khó mà không lặp đi
lặp lại khi đang phải gắng truyền tin tới một người bạn qua cả khoảng cách
vời vợi nhường ấy.
Kamante thông báo đã lâu không còn được ai thuê mướn nữa. Tôi chẳng hề
ngạc nhiên khi nghe tin này, bởi cậu thực sự là món trứng cá với đại
chúng
. Tôi đã đào luyện ra một đầu bếp hoàng cung để rồi bỏ lại nơi xứ
thuộc địa mới khai phá. Trường hợp của cậu giống như chuyện câu thần
chú “Vừng ơi mở ra”. Giờ câu thần chú ấy bị lãng quên và cánh cửa đá giữ
kho báu đã đóng chặt. Chẳng ai thấy tay bếp cừ khôi đầy hiểu biết, bước đi
trong trầm mặc, mà chỉ nhìn ra một chú bé Kikuyu chân vòng kiềng, một
chú lùn có khuôn mặt bẹt, vô cảm.
Kamante đã nói những gì khi cuốc bộ tới Nairobi, đứng trước tay viết thuê
tham lam, ngạo mạn người Ấn, hầu giãi bày ngọn ngành về bức thông điệp
sẽ đi nửa vòng Trái Đất. Những dòng chữ rồng rắn lên xuống, câu cú lộn
xộn rối rắm. Nhưng Kamante có một tâm hồn lớn mà người hiểu cậu sẽ vẫn
nghe được ra âm điệu trong thứ âm nhạc khê khàn loạn nhịp, thậm chí chỉ
như âm vọng tiếng đàn môi chàng chăn cừu David
Đây là một “Lá thư thứ hai”: