chắn ngang mặt thứ tư của khoảnh sân, vọng ra tiếng lách cách của khung
cửi.
Khi bà Lydia quay, bóng đổ của con suốt dài dần, dài dần trên nền đất
cho đến khi ánh mặt trời tắt hẳn phía sau bức tường, để mặc khoảnh sân
chìm trong bóng xám mờ.
Ngang lối đi nhỏ, có một căn phòng lớn quay mặt về phía sân nhà. Than
hồng đang cháy âm ỉ trên cái bếp bằng đá đặt ngay giữa phòng, và xa xa,
thông qua cánh cửa ở phía đối diện, ta có thể nhìn thấy đàn gia cầm đang
lạch bà lạch bạch ngoài trại. Thế rồi bỗng nhiên, sự im lặng của buổi chiều
muộn bị phá vỡ bởi hàng mớ tạp âm. Nào là tiếng kêu be be của đàn cừu,
tiếng lục lạc kêu leng keng, tiếng rống của đàn gita súc, tiếng chó sủa liên
hồi, tiếng chân trần êm mềm chạm đất và kế đó là giọng nói của lũ trẻ.
Bất thình lình bọn gà mái nuôi thả ngoài trại hè nhau kêu quang quác, rồi
thì có hai đứa bé chạy hộc tốc vào cửa sau, lướt ngang qua lò sưởi đang âm
ỉ, đâm bổ vào trong sân, theo sau là một con chó chăn cừu lớn. Lũ trẻ có
đôi mắt xanh lơ và mái tóc vàng óng hệt như của bà mẹ, trông lớn tướng
đến độ cứ như là đã mười hai tuổi, nhưng thực ra thì chỉ mới có chừng
mười tuổi thôi. Cả hai giống nhau như hai giọt nước đến độ ngay cả mẹ
chúng cũng không thể phân biệt nổi đứa nào là Dion còn đứa nào là
Daphne, còn về phần bố bọn trẻ, ông ấy thậm chí còn chẳng buồn phân
biệt. Ông ấy cứ tiện tên nào thì gọi tên ấy, thì đằng nào bọn trẻ chẳng tự
phân biệt được chúng với nhau. Daphne, chắc chắn, áo lúc nào cũng để dài
hơn áo của Dion một chút, nhưng mỗi khi chạy nhảy chơi đùa, lúc nào cô
bé cũng thâu nó lên một tẹo thông qua chiếc đai lưng, cho nên đó cũng
không phải là một dấu hiệu phân biệt chắc chắn.
Bà Lydia nhìn hai đứa bé đang chạy bổ vào trong sân, hết đứa này sang
đứa kia, miệng mỉm cười không giấu niềm tự hào. Theo sau hai đứa trẻ là
con chó Argos, nó vừa sủa vừa nhảy chồm chồm.