cóc vào trong bình rồi đậy kín lại. Đoạn ông chôn luôn chiếc bình ở giữa
cánh đồng, bên cạnh tên bù nhìn.
“Xong!” bà Lydia nói, khỉ mọi sự đã hoàn tất. “Câu thần chú này xưa
nay vốn rất linh nghiệm. Nếu cả nó cũng không bảo vệ được ruộng bắp,
thật tôi không biết còn cái gì có thể bảo vệ được nữa.”
Là do gã bù nhìn, do lời nguyền, hay do câu thần chú, tôi không dám
chắc, nhưng có một điều là vụ bắp mùa hè năm đó vô cùng tươi tốt. Khi
mùa thu hoạch đến, ông Melas vui mừng đến độ đã quyết định tổ chức một
lễ mừng hoành tráng. Một ngày cuối hè nọ, mọi người trong nông trại đều
thức đậy từ lúc tinh mơ và hối hả ra đồng. Hôm đó là ngày thứ mười hai
trong tháng, một ngày được xem là may mắn cho thu hoạch. Ai nấy đều
phấn chấn, cả quản nô lẫn nô lệ đều cầm lưỡi liềm bủa vào cánh đồng chín
rộ. Ông Melas và hai người đàn ông khác dẫn đường, gặt thoăn thoắt, thân
bắp rạp xuống dưới đất, những người đi sau cứ thế nhặt lên và bó lại thành
từng bó.
Trong lúc đó, bà Lydia, Chloe, và nhũng người phụ nữ khác chuẩn bị
một bữa tiệc ngoài trời. Họ giết một chú bê con, xẻ thịt ra để nấu nướng,
đến trưa thì một đống lửa to được nhóm lên. Bà Lydia phụ trách việc nấu
nướng. Bà đặt những miếng thịt to trước ngọn lửa, dặn dò bọn trẻ ngồi canh
và trở thịt luôn tay cho chín đều. Dion và Daphne cũng lo việc châm thêm
củi vào lửa, trong lúc các nữ nô lệ khác người thì nhào bột và nướng bánh
bằng lửa than, người ra suối múc nước, người mang nước uống ra cho các
thợ gặt đang làm việc ngoài đồng.