“ Kiệu bát cống quay tròn, bây giờ mới thật như chiếc hoa giữa
đám hội, vừa bay vừa cong cánh nở. Lòng hân hoan mong đợi của cả
ngàn người xem hội cứ thế bồng bột mãi lên. Hai mươi bốn trai
kiệu, nghe tiếng trống khẩu, một lượt quỳ như hai mươi bốn thớt
voi rồi từ từ bò qua gò, vai kiệu vẫn phẳng lừ như tường đứng. ”
(tr. 146)
Mùa vụ cây dó (làm bột giấy):
“ Cạn kỳ dó chính tuyết, vừa cuối thu. Lần sang vụ dó Một
Chạp đến tháng Giêng là “đầu giao”. Một Chạp hay “đầu giao”,
áo dó mới lột, quệt sương hay mưa đều ố nước, mất công phơi
nhiều nắng mới bó được. Nhưng vừa xong cái vất vả rừng này lại
phải lặn lội sang rừng khác, đã vào vụ dó chiêm. Dó chiêm tiếp dó
đuôi tháng, quanh lại vừa trở lại chính tuyết. ” (tr. 163)
Đúng là Tô Hoài. Chỉ có thể là Tô Hoài.
Nhưng cái mà tôi kính nể là đọc tác phẩm này tôi như
đứng trước sừng sững một tòa ngôn ngữ chân chất và tinh
diệu. “Trong ngọc” nhất trong tòa ngôn ngữ này là những
câu văn thuộc loại “văn xuôi thơ” sáng giá của văn chương
Việt Nam hiện đại. Đây là những câu văn tả tình cảnh một
người con gái ngồi trên thuyền ngược sông đi lấy chồng
giầu mạn ngược:
“Những lời hò vui mà thảm thiết:
Ra khoang… em bước… qua cầu…
Bến vui em đến…