ngăn cặp lồng thì ông ấy vào, ngó ngó dòm dòm xung quanh rồi hỏi: “Chỗ
anh thế nào? Yên tĩnh cả chứ?”. Tôi bảo là yên ổn, chứ còn muốn gì nữa
hả? Nghe thế, ông ta nhắc để tôi canh gác: trong tủ két còn cả một lô tiền
đấy, chuyện ấy thì tôi cũng biét, chẳng cần ôpng nhắc. Tôi đáp rằng tôi hiểu
phải canh gác ra sao rồi.
- Hai người trò chuyện ở tư thế nào? Đứng hả?
- Gher-man ngồi xuống bênh cạnh và chúng tôi châm thuốc hút.
- Thế ông ấy ngồi có lâu không? Lúc nào thì đứng dậy đi chỗ khác?
- Chỉ hút hết điếu thuốc thôi. Rồi ông ấy nhắc lại lần nữa: đừng có ngủ đấy.
Xong đi ra.
- Thuốc hai người hút là của ai? Ông ta mời bác hay bác mời ông ta?
- Tôi không nhớ rõ lắm – ông gác ra dáng nghĩ ngợi – hình như ông ấy mời
tôi…
- Gher-man đi rồi thì bác làm gì?
- Cũng như mọi lần thôi: canh gác chứ còn làm gì nữa? Tôi đi quanh nhà
một vòng, nhìn ra ngoài phố rồi theo cửa kia ra sân. Bốn bề đều yên ắng.
Thế là tôi ngồi xuống, đọc báo một lúc. Tôi đã quen việc lắm rồi nên không
thấy sốt ruột lúc phải ngồi không. Tôi cứ ngồi thế cho đến tận sáng. Nhưng
đến đầu giờ thì cả nhà máy cuống cả lên vì cái vụ mất trộm.
Vưđ-ma không rời mắt khỏi ông gác đêm:
- Hết rồi à?
- Thế ông bảo còn gì nữa nào? Tôi đã kể thành thật như là xưng tội vậy đấy.
- Bác xưng tội thế kể cũng tạm cho là được đi, bác La-bu-xơ ạ. Nhưng bác
có thấy là bác đã chước bớt tội lỗi đi không ấy nhỉ?
- Tôi ấy ư? Chước bớt? Thế phải xưng thế nào kia mới được? – ông cụ gác
đêm giận dỗi một cách hết sức thật lòng.
- Bác không muốn thú nhận là sau khi Gher-man ra ngoài, bác đã ngủ thiếp
đi. Đến cả ba tiếng đồng hồ kia đấy.
Ông gác há hốc mồm, toan nói gì đó nhưng lại nín thinh, sợ hãi nhìn chằm
chằm vào cặp mắt của Vưđ-ma. Phản ứng của ông ta chẳng có gì là khó
hiểu. Rõ ràng ông muốn chối phăng hết thảy nhưng chỉ lầu bầu những lời
không mạch lạc: