bấm chuông.
Một hồi chuông dài vang lên sau cửa. Anh chờ, nhưng chẳng thấy ai ra mở.
Anh bấm thêm lần nữa, và cứ để nguyên tay trên cái núm trắng một lúc khá
lâu. Vẫn không có người ra. Thiếu tá rủa thầm một câu, và đang tính xem
nên chọn lúc nào đây để ghé đến lần nữa, mới hy vọng gặp được chủ nhà.
Anh bỏ tay xuống, toan quay đi, thì vô tình chạm phải quả đấm, và hơi lấy
làm lạ: cánh cửa từ từ mở ra. Trước mắt anh là một căn phòng ngoài hẹp và
tối. Nhờ ánh sáng ngoài hành lang hắt vào, Vưđ-ma tìm ngay được công tắc
đèn. Anh khép cửa lại, rồi đi sâu vào trong.
Ngoài đường đã nhập nhoạng tối, nên phòng trong cũng chẳng sáng hơn gì.
Anh chỉ nhận ra cái xác nằm sóng sượt dưới sàn nhà, sau khi đã bật công
tắc điện. Căn phòng bày biện rất đơn sơ. Ở một góc, kê một chiếc đi văng.
Cạnh đó là một chiếc bàn con con đã cũ, một tủ treo áo và một tủ buýt phê,
cửa lắp kính, trên đặt một chiếc máy thu thanh nhỏ. Còn chính giữa phòng
chơ chổng một chiếc bàn tròn và bốn cái ghế dựa.
Một người đàn ông nằm sấp dưới sàn, cạnh chiếc bàn tròn, giữa một vũng
máu.
Vưđ-ma lật nghiêng nạn nhân sang một bên để nhìn cho rõ mặt, khuôn mặt
tròn quay, cặp môi khá dày, môi trên điểm một hàng ria mép mảnh, đen sì.
Theo nhân dạng mà Ghéc-xơn đã cung cấp thì đây chính là chủ nhà – Vich-
to Y-a-khma, biệt hiệu là Táo Xanh.
Vưđ-ma lật cái xác trở về tư thế cũ, rồi chăm chú quan sát căn phòng.
Không hề có một dấu vết nào cho thấy nạn nhân đã chống cự. Thực tình,
cũng có một cánh cửa tủ buýt phê khép chưa chặt và mấy cái ngăn kéo ở đó
chưa đóng kỹ. Cái gạt tàn đặt trên chiếc bàn kê cạnh đi văng không có lấy
một mẩu tàn thuốc. Nhưng chiếc khung ảnh trên bàn trên bàn viết lại trống
hoác. Tấm ảnh lồng bên trong đã bị gỡ đi, mà làm rất vội vã, bên dưới tấm