cách cự tuyệt. Vả lại, hắn còn hứa sẽ tặng mình chiếc xa-mô-va cổ, mà hắn
xoáy được bằng cách gì thì chỉ mỗi một mình hắn biết – cái ấm mà mình đã
nài nỉ hắn từ lâu rồi.
Ca-rôn ghé đến nhà mình lúc gần tám giờ tối. Mình ngồi nhà chờ cậu ta đến
mười một giờ khuya. Vì nghĩ bụng chắc chẳng có gì rắc rối cả đâu, nên đi
ngủ, chắc mẩm sáng mai thế nào Ca-rôn cũng tìm đến. Cậu ta quả tình xuất
hiện lúc gần mười giờ sáng, giao lại chìa khóa, vỗ vai mình bồm bộp, khen
nức khen nở cô bạn mới, rồi cam đoan là mọi thứ trong phòng đâu vẫn
nguyên đấy, và chạy ù đến tòa soạn. Mình còn phải phác thảo cho xong
chiếc bao đĩa hát, nên cứ hí hoáy ngồi vẽ đến tận trưa. Rồi, ăn qua quít cho
xong bữa và vội vàng phóng xe đến nhà têre, để xem xem mọi thứ có đúng
như lời Ca-rôn nói không.
Tấm vải trải giường cuộn tròn vẫn nằm trên đi văng. Nhìn tấm vải, mình
chợt nhớ là phải đến hiệu thợ giặt. Trên chiếc bàn con mình thấy mẩu giấy
với mấy chữ nghuệch ngoạc: “Chào anh – An-ca”. Mình đem đốt đi ngay,
để nhờ trời, xóa sạch mọi dấu vết về sự có mặt của phụ nữ trong căn phòng.
Nói chung, mọi thứ đều vẫn ở nguyên chỗ cũ thật. Mấy tấm rèm cửa sổ vẫn
buông ngay ngắn, bếp núc vẫn tinh tươm. Yên tâm, mình định ra đi, nhưng
đến lúc đi ngang qua phòng ngoài mới sững sờ vì cảm thấy đó thiếu thiếu
một cái gì. Mình nhớ như in trên mắc áo có treo một chiếc măng – tô trắng
kẻ vuông màu nâu và cái xắc da màu đỏ. Mình tin chắc như thế vì têre có
dặn phải đem chiếc áo ấy ra tiệm hấp lại.
Bây giờ, cái mắc áo trống không. Mình lo quá bèn vào lục tung hết đồ đạc
trong phòng. Nhưng vẫn chẳng thấy tăm hơi chiếc áo đâu.
Đích thị là bị mất trộm rồi. Ngao ngán quá mình ngồi phịch xuống xa lông,
đầu óc mụ đi vì những ý nghĩ buồn rầu.
Vấn đề không phải chỉ là chuyện giá tiền của hai món đồ bị mất. Cái xắc da