nghĩ bi quan ban đầu. Phát minh của Perkin cũng đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của chuyên ngành hóa hữu cơ cấu trúc, một nhánh hóa học nghiên
cứu một cách chính xác sự sắp xếp và kết nối của các nguyên tử trong một
phân tử. cấu trúc hóa học của các loại thuốc nhuộm tổng hợp mới và cả
những thuốc nhuộm thiên nhiên truyền thống như màu chàm và alizarin cần
phải được xác định chính xác.
Thí nghiệm nguyên bản của Perkin dựa trên những giả định hóa học sai
lầm. Vào lúc đó, công thức hóa học của quinine đã được xác định là
C
₂₀H₂₄N₂O₂, nhưng cấu trúc của hợp chất này thì chưa được biết đến.
Perkin cũng biết một hợp chất khác, allyltoluidine, có công thức hóa học là
C
₁₀H₁₃N, và điều này dường như khiến ông nghĩ rằng có thể kết hợp hai
phân tử allyltoluidine trong điều kiện có sự hiện diện của một chất oxy hóa,
ví dụ như kali dichromate nhằm cung cấp thêm các nguyên tử oxy, để tạo
thành quinine.
2C
₁₀H₁₃N + 3O —► C₂₀H₂₄N₂O₂ + H₂0
allyltoluidine oxy quinine nước
Nếu chỉ nhìn theo công thức hóa học thì ý tưởng của Perkin không phải
là không hợp lý, nhưng giờ đây chúng ta biết rằng không thể thực hiện
được phản ứng trên. Nếu không biết được cấu trúc chính xác của
allyltoluidine và quinine, thì không thể đưa ra được chuỗi các phản ứng cần
thiết để chuyển hóa phân tử này thành phân tử kia. Đây là lý do tại sao
phân tử mauveine Perkin điều chế được lại có sự khác biệt rất lớn về mặt
hóa học so với quinine, phân tử mà ông mong muốn tổng hợp được.
Cho đến tận ngày nay, cấu trúc của mauveine vẫn còn là bí ẩn. Bởi lẽ
nguyên liệu Perkin sử dụng, được phân lập từ hắc ín, không phải là một
hợp chất tinh khiết, và màu tím hoa cà của ông có vẻ như là một hỗn hợp
bao gồm các hợp chất có quan hệ rất gần gũi với nhau, cấu trúc hóa học
dưới đây được cho là cấu trúc chủ yếu tạo thành màu tím hoa cà: