này là dấu hiệu cảnh báo các nhà chức trách về sự hiện hữu của những kẻ
sản xuất heroin ngoài vòng pháp luật. Những chú chó cảnh sát được huấn
luyện đặc biệt có thể phát hiện ra dấu vết mờ nhạt của mùi giấm ở mức độ
rất nhỏ, dưới khả năng cảm giác của con người.
Đào sâu nghiên cứu vào vấn đề tại sao morphine và những phân tử
alkaloid tương tự có tác dụng giảm đau, các nhà khoa học cho rằng
morphine thực tế không gây nhiễu những tín hiệu thần kinh truyền đến não.
Thay vào đó, nó chỉ thay đổi một cách chọn lọc cách thức não đón nhận
những tín hiệu này - nghĩa là, cách não nhận thức cơn đau đang được
truyền đến. Phân tử morphine dường như có khả năng chiếm chỗ và ngăn
chặn các cơ quan cảm nhận nỗi đau trong não, một giả thuyết tương liên
với ý tưởng cho rằng các phân tử cần có một cấu trúc hóa học với hình
dạng nhất định để có thể tương tác với cơ quan cảm nhận đau.
Morphine mô phỏng tác dụng của các endorphin, những hợp chất giảm
đau tự nhiên có hàm lượng rất nhỏ trong não và tăng lên trong điều kiện
căng thẳng thần kinh (stress). Các endorphin là polypeptide, những hợp
chất tạo thành khi các amino acid nối với nhau, đầu này với đầu kia. Quá
trình này tương tự những gì xảy ra với cấu trúc protein trong lụa tơ tằm
(xem chương 6). Nhưng trong khi phân tử lụa có đến hàng trăm hoặc hàng
ngàn amino acid, endorphin chỉ có một vài đơn vị. Hai hợp chất endorphin
đã phân lập được đều là hợp chất pentapeptide, nghĩa là chúng chứa năm
amino acid. Cả hai pentapeptide này và morphine có chung một đặc điểm
trong cấu trúc: chúng đều chứa một đơn vị β-phenylethylamine, cũng là
phần cấu trúc hóa học có tác động lên não trong LSD, trong mescaline hay
các phân tử gây ảo giác khác.