chất alkaloid trong vỏ cây cinchona, mặc dù đã tạo ra lợi ích cho con người
trong suốt chiều dài lịch sử, hầu như không mang lại bất cứ quyền lợi kinh
tế gì cho người bản địa tại sườn đông dãy Andes, nơi cây quina sinh
trưởng. Những kẻ ngoại lai đã hưởng hết lợi nhuận từ phân tử quinine, lợi
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc biệt của một vùng đất kém phát
triển hơn cho lợi ích riêng của họ. Người châu Âu đã thực hiện được công
cuộc thuộc địa hóa trên toàn thế giới nhờ vào khả năng kháng sốt rét của
quinine. Giống như nhiều hợp chất thiên nhiên khác, quinine đã trở thành
một hình mẫu để các nhà hóa học hướng đến, cố gắng tổng hợp được nó
hoặc tăng cường hiệu quả của nó thông qua các biến đổi trên cấu trúc hóa
học.
Trong suốt thế kỷ 19, mặc dù phân tử quinine đã góp phần vào sự phát
triển của đế quốc Anh và sự mở rộng các thuộc địa khác của người châu
Âu, nhưng thành quả thật sự là việc phân tử DDT đã xóa sổ được sốt rét
khỏi châu Âu và Bắc Mỹ trong thế kỷ 20. DDT là một phân tử hữu cơ
không có hợp chất tương tự trong thiên nhiên. Luôn có những rủi ro khi tạo
ra những phân tử như vậy - chúng ta không có cách nào để biết chắc chắn
rằng hợp chất này có tác động tốt và hợp chất kia có thể gây nguy hại. Thế
nhưng, có bao nhiêu người trong chúng ta sẵn sàng từ bỏ toàn bộ các phân
tử mới, những đột phá của các nhà hóa học nhằm cải thiện đáng kể cuộc
sống của chúng ta: các loại thuốc kháng sinh và sát trùng, các loại nhựa và
polymer, các loại vải sợi và hương liệu, các loại thuốc tê và các phụ gia,
các chất màu và môi chất lạnh?
Sự biến đổi phân tử rất nhỏ tạo ra hồng cầu lưỡi liềm đã ảnh hưởng rất
lớn tại ba lục địa. Khả năng đề kháng với bệnh sốt rét chính là yếu tố tối
quan trọng trong sự phát triển của việc buôn bán nô lệ châu Phi trong thế
kỷ 17. Phần lớn các nô lệ được đưa sang Tân Thế Giới đến từ những vùng
đất châu Phi, nơi mà bệnh sốt rét và gene di truyền bệnh thiếu máu hồng
cầu lưỡi liềm rất phổ biến. Những kẻ buôn nô lệ và chủ nô đã nhanh chóng
khai thác ưu thế tiến hóa khi valine thay thế glutamic acid ở vị trí thứ sáu
trên phân tử hemoglobin. Tất nhiên là họ không biết gì về những lý do hóa