chóng dẫn các nhà khoa học đến với phản ứng phân hạch và phản ứng phân
hạch dây chuyền (mà neutron là một tác nhân quan trọng). Và ngay khi họ
hiểu rằng hạt nhân nguyên tử có thể phân rã – cả về ý nghĩa khoa học lẫn
chính trị – việc thu thập các nguyên tố mới để trưng bày chỉ còn là sở thích
của kẻ nghiệp dư (giống như sinh học lỗi thời bắn-rồi-nhồi những năm 1800
so với sinh học phân tử ngày nay). Đứng trước Thế Chiến II và khả năng bị
bom nguyên tử đe dọa vào năm 1939, giới khoa học chẳng buồn bận tâm
đến prometi cho tới tận một thập kỷ sau.
Dù các nhà khoa học cực kỳ phấn khích trước khả năng chế tạo bom phân
hạch nhưng cơ sở lý thuyết vẫn còn xa rời thực tế. Ngày nay có lẽ hơi khó
hình dung, nhưng bom hạt nhân bị coi là chuyện xa vời vào thời điểm đó,
đặc biệt là bởi các chuyên gia quân sự. Như thường lệ, giới lãnh đạo háo hức
chiêu mộ các nhà khoa học, và công nghệ do họ tìm ra (như những loại thép
tốt hơn) đã khiến chiến tranh càng thảm khốc. Nhưng hai quả bom nguyên
tử góp phần đặt dấu chấm hết cho chiến tranh suýt nữa đã không xuất hiện
nếu thay vì chỉ đòi hỏi những món vũ khí ăn liền vừa to vừa khỏe, chính phủ
Mỹ lại kêu gọi sự đồng thuận chính trị để đầu tư hàng tỷ đô la Mỹ vào lĩnh
vực khoa học bấy giờ vẫn còn thuần túy và phi thực tế: khoa học hạ nguyên
tử. Cho dù vậy, phản ứng phân hạch có kiểm soát vẫn vượt xa khả năng của
khoa học thời đó, đến mức Dự án Manhattan phải áp dụng một cách nghiên
cứu hoàn toàn mới để thành công: phương pháp Monte Carlo. Cũng từ đây,
quan niệm của con người về “nghiên cứu khoa học” đã thay đổi hoàn toàn.
Như đã nói, cơ học lượng tử áp dụng hiệu quả với các nguyên tử đơn lẻ; và
đến năm 1940, các nhà khoa học biết rằng hấp thụ thêm neutron khiến
nguyên tử kém bền hơn. Nó sẽ phân rã và giải phóng thêm càng nhiều
neutron. Theo dõi quỹ đạo của một neutron xác định không hề khó hơn theo
dõi một quả bóng bi-a. Nhưng một phản ứng dây chuyền đòi hỏi phải có sự
xuất hiện của hàng tỷ tỷ neutron di chuyển theo mọi hướng với tốc độ khác
nhau. Điều này khiến các nhà khoa học rất khó xây dựng một công cụ lý