nhiên các sự kiện được theo dõi thông qua... một loạt khoảng thời gian mang
tính đại diện, nhằm tìm ra kiểu thiết kế bom khả dụng trong thực tế.”*
Phản ứng hạt nhân trên lý thuyết đôi khi đã xảy ra, và được tính là một thành
công. Hết phép tính này, những người phụ nữ lại chuyển sang những con số
khác. Họ tính, tính và tính. Rosie the Riveter
1
có thể là biểu tượng tiêu biểu
của quyền bình đẳng lao động với phụ nữ trong chiến tranh, nhưng Dự án
Manhattan sẽ không đi đến đâu nếu không có những phụ nữ đã tính toán
bằng tay các bảng dữ liệu dài dằng dặc. Họ được gọi với một tên gọi mới:
“máy tính”.
Nhưng tại sao cách tiếp cận này lại khác biệt tới vậy? Về cơ bản, các nhà
khoa học đã coi mỗi tính toán tương đương với một thí nghiệm và chỉ thu
thập dữ liệu ảo cho bom plutoni và urani. Họ bỏ qua sự tương hỗ giữa lý
thuyết-thực nghiệm và áp dụng các phương pháp mà một nhà sử học đã mô
tả chân thực là “vượt khỏi các phương pháp thường thấy… một thực tế mô
phỏng vay mượn từ cả thực nghiệm và lý thuyết, kết hợp chúng với nhau để
tạo nên một phương pháp mới không giống bất cứ cách thức thông thường
nào.”*
1
. Hình ảnh tiêu biểu của nữ công nhân Mỹ trong Thế Chiến II. (BTV)
Tất nhiên, những tính toán như vậy chỉ giống như những phương trình ban
đầu của các nhà khoa học, nhưng họ đã gặp may. Các hạt ở cấp lượng tử
chịu sự chi phối của các định luật thống kê và cơ học lượng tử (dù có đặc
tính rất kỳ lạ và trái với thường lý) – lý thuyết khoa học chính xác nhất từng
được phát minh. Thêm vào đó, lượng phép tính khổng lồ trong Dự án
Manhattan mang lại cho họ niềm tin rất lớn. Điều này đã được chứng minh
khi cuộc thử nghiệm Trinity (ở New Mexico) thành công vào giữa năm
1945. Sự phát nổ nhanh chóng, hoàn hảo của bom urani ở Hiroshima và bom
plutoni ở Nagasaki vài ngày sau đó cũng chứng minh tính chính xác của
phương pháp tiếp cận dựa trên tính toán phi truyền thống này.