Thảm họa thalidomit khiến triển vọng của các loại thuốc mang thủ tính trở
nên mờ mịt hơn bao giờ hết. Nhưng trong lúc mọi người đang khóc thương
cho những đứa trẻ phải chịu ảnh hưởng của thảm họa thalidomit, nhà hóa
học William Knowles ở St. Louis đã bắt đầu thử nghiệm rodi – “người hùng
nguyên tố” không ngờ tới – trong một phòng thí nghiệm tư nhân tại công ty
nông nghiệp Monsanto. Knowles đã lẳng lặng phớt lờ quan niệm của
Pasteur và chứng minh rằng chất “không sống” vẫn có thể tiếp thêm sinh lực
cho “chất sống”, miễn là bạn hiểu rõ về nó.
Knowles có một phân tử hai chiều và muốn biến nó thành ba chiều, bởi
phiên bản thuận trái của phân tử ba chiều cho thấy những tác dụng đầy hứa
hẹn với các bệnh về não như Parkinson. Điểm mấu chốt là tạo ra phân tử ba
chiều có tính thuận như mong muốn. Cần lưu ý rằng phân tử hai chiều
không thể có thủ tính, chỉ phân tử ba chiều mới có (ví dụ: mảnh bìa phẳng
thuận phải luôn có thể lật để thuận trái). Nhưng các chất vô tri trong một
phản ứng hóa học thì làm sao biết phân biệt thủ tính?* Chúng luôn tạo ra cả
hai, trừ khi bị lừa.
“Cú lừa” của Knowles là chất xúc tác rodi. Chất xúc tác khiến tốc độ phản
ứng tăng nhanh đến mức khó mà hình dung nổi. Một số chất xúc tác làm tốc
độ phản ứng tăng gấp hàng triệu, hàng tỷ, thậm chí hàng ngàn tỷ lần. Tác
động của rodi tới phản ứng là khá nhanh, và Knowles phát hiện ra rằng một
nguyên tử rodi có thể “gắn thêm một chiều” cho vô số phân tử hai chiều của
mình. Vì vậy, ông gắn rodi vào tâm một hợp chất có sẵn thủ tính để tạo ra
một chất xúc tác có thủ tính.
Hay ở chỗ là cả chất xúc tác được gắn rodi và phân tử đích hai chiều đều
cồng kềnh, nên khi chúng tiếp cận nhau để phản ứng, ta có thể mường tượng
như hai con vật béo múp đang cố gắng “yêu đương”. Tức là chất xúc tác có
thủ tính chỉ có thể gắn nguyên tử rodi của nó vào phân tử hai chiều tại đúng
một vị trí. Và từ vị trí đó, do vướng víu mà phân tử hai chiều sẽ “phình lên”
thành một phân tử ba chiều có thủ tính chỉ theo một hướng.