trong khi Marie bỏ ra hàng tháng trời đun sôi hàng ngàn cân uraninit đen để
có được các mẫu radi và poloni siêu nhỏ, Rutherford lại cảm nhận được lối
tắt và để thiên nhiên làm hộ. Ông chỉ cần để các mẫu phóng xạ phân rã trong
một bình kín, rồi dẫn những bong bóng khí thu được vào một bình thủy tinh
úp ngược khác. Đó chính là loại khí mà ông cần. Rutherford và Frederick
Soddy nhanh chóng chứng minh rằng những bong bóng khí có tính phóng xạ
thu được ấy là một nguyên tố mới: radon. Và do khối lượng mẫu ban đầu
giảm đi đúng bằng khối lượng khí radon thu được, họ nhận ra rằng một
nguyên tố đã thực sự biến đổi thành nguyên tố khác.
Rutherford và Soddy không những tìm thấy một nguyên tố mới mà còn phát
hiện ra các quy tắc biến đổi mới lạ của các nguyên tố trên bảng tuần hoàn.
Khi phân rã, chúng đột nhiên “đi ngang” và nhảy qua nhảy lại giữa các ô.
Điều này thật ly kỳ nhưng cũng thật báng bổ. Khoa học từng phủ nhận hoàn
toàn thuật giả kim – “pháp thuật” biến chì thành vàng – nhưng giờ
Rutherford và Soddy đang mở lại cánh cổng cho “pháp thuật” ấy. Khi Soddy
cuối cùng cũng bị điều này thuyết phục và thốt lên: “Rutherford, các nguyên
tố đã biến đổi!”, Rutherford đã nổi đóa.
“Lạy thánh Micheal, Soddy, làm ơn đừng dùng cái từ đó. Người ta sẽ coi
chúng ta là bọn giả kim rồi bêu đầu mất!”
Mẫu radon nhanh chóng “đỡ đầu” cho nhiều phát kiến khoa học còn gây
sửng sốt hơn nữa. Rutherford tùy hứng đặt tên cho hạt nhỏ bay ra từ các
nguyên tử phóng xạ là hạt alpha. (Ông cũng phát hiện ra hạt beta.) Dựa trên
sự khác biệt về khối lượng của các nguyên tố trong quá trình phân rã,
Rutherford ngờ rằng hạt alpha thực chất là các nguyên tử heli vỡ ra (giống
như bong bóng thoát khỏi chất lỏng đang sôi). Nếu quả vậy thì các nguyên
tố có thể di chuyển xa hơn trên bảng tuần hoàn. Nếu urani phát ra heli, các
nguyên tố “nhảy cóc” từ đầu này sang đầu kia bảng tuần hoàn giống như
một bước đi may rủi trong trò chơi Snakes & Ladders (Rắn và thang) vậy.