lại phát ra một hạt alpha khác để sinh ra radi. Quá trình cứ thế tiếp diễn: radi
sinh ra radon, radon sinh ra poloni và poloni sinh ra chì bền. Đây là một
chuỗi phân rã nổi tiếng mà ai cũng đã biết. Và trong một phút lóe sáng như
Glaser, Rutherford còn nhận ra những hạt alpha thoát ra tạo thành những
bong bóng heli nhỏ bên trong đá. Điều cốt lõi là heli không bao giờ phản
ứng với các nguyên tố khác. Vì vậy, đáng lẽ heli không xuất hiện trong đá
giống như cacbon dioxit trong đá vôi. Nguồn heli ở trong đá đều là sản
phẩm của phân rã phóng xạ. Càng nhiều heli thì tảng đá càng “già”, ít heli
thì vẫn “non” lắm.
Rutherford đã nghĩ về quá trình này được vài năm tính đến năm 1904, khi
ông 33 tuổi và William Thomson đã 80. Bất chấp tất cả những gì ông từng
đóng góp cho khoa học, tâm trí của Thomson không còn tinh tường nữa. Đã
qua rồi cái thời mà ông có thể đưa ra những lý thuyết mới thú vị (giống như
lý thuyết mà mọi nguyên tố trên bảng tuần hoàn – ở cấp độ sâu nhất dều là
những “nút thắt ether khác nhau”. Quan trọng nhất là Thomson từ chối dung
nạp lĩnh vực phóng xạ đáng lo ngại (thậm chí đáng sợ) vào thế giới quan của
mình. (Đó là lý do tại sao Marie Curie từng kéo ông vào xó để ông thấy tận
mắt “nguyên tố phát sáng trong bóng tối” của bà.) Ngược lại, Rutherford
nhận ra rằng phóng xạ trong vỏ Trái Đất có thể sinh ra nhiệt dư, đập tan lý
thuyết của Thomson về sự mất nhiệt đơn thuần vào không gian.
Cực kỳ phấn khích và muốn giới thiệu ý tưởng mới của mình, Rutherford đã
tổ chức một buổi thuyết trình ở Cambridge. Nhưng dù có gân đến mấy thì
Thomson vẫn có ảnh hưởng rất lớn trong khoa học, và bác bỏ tính toán tự
hào nhất của ông có thể hủy hoại sự nghiệp của chính Rutherford.
Rutherford mở đầu rất thận trọng; thật may là ngay sau khi ông bắt đầu,
Huân tước Kelvin ngồi ở hàng ghế đầu lại ngủ gật. Rutherford chớp thời cơ
đi nhanh đến kết luận, nhưng đúng lúc ông chuẩn bị bác bỏ nghiên cứu của
Thomson thì nhà khoa học già lại tỉnh như chim sáo.
Trong cảnh tiến thoái lưỡng nan, Rutherford chợt nhớ đến một câu vô
thưởng vô phạt đã đọc được trong nghiên cứu của Thomson. Với ngôn ngữ