Lực lượng thuỷ quân cũng có những yêu cầu khác với hai lực lượng kia,
nhưng cũng chỉ có hai yếu tố chính liên quan đến quyết định mua máy bay
riêng, đó là: cất cánh nhanh, hạ cánh theo chiều thẳng đứng và khả năng
chống trả mạnh mẽ. Để hỗ trợ đội quân ở những vùng xa và ác liệt, lực
lượng thuỷ quân cần loại máy bay hoạt động như một chiếc máy bay chiến
đấu phản lực, đồng thời có thể bay lượn như máy bay trực thăng. Với
quãng đường bay dài, ở độ cao thấp, lực lượng thuỷ quân cần loại máy bay
được trang bị pháo sáng, thiết bị phá nhiễu điện tử để lẩn tránh tên lửa đất
đối không của kẻ thể bởi vì máy bay của họ là những mục tiêu khá dễ bị
phát hiện do hoạt động ở tầm thấp.
Được giao nhiệm vụ duy trì an ninh không phận, lực lượng không quân
cần có những chiếc máy bay tốc độ nhanh, khả năng ứng phó nhanh hơn tất
cả những loại máy bay khác của đối phương, đồng thời đó phải là loại máy
bay được sản xuất với vật liệu và cấu trúc thu sóng rađa khó bị phát hiện để
có thể dễ dàng tấn công tên lửa và máy bay của địch. Loại máy bay của hai
lực lượng kia thiếu những yếu tố này, và do đó lực lượng không quân đã
không cân nhắc tới khi quyết định mua máy bay.
Qua những phân tích trên, dự án JFS được đánh giá cao về tính khả thi.
Mục đích của dự án là chế tạo một loại máy bay cho cả ba lực lượng bằng
cách kết hợp những yếu tố trên, đồng thời giảm bớt hoặc loại bỏ những đặc
tính khác vốn được xem là tất yếu tố trước đến nay nhưng mang lại ít giá trị
gia tăng, hoặc các đặc tính không cần thiết được thiết kế nhằm chạy đua với
đối thủ cạnh tranh. Như được mô tả trong Hình 5-2. khoảng chừng 20 đặc
điểm của máy bay trong lực lượng hải quân, thuỷ quân và không quân đã
được loại bỏ hoặc giảm bớt.