Khắp nơi ở miền Bắc, mỗi khi các đơn vị lính Pháp vào khu vực nào thì
ở đó các thôn xóm địa phương đều nổi dậy đánh trả. Võ Nguyên Giáp yên
tâm và phấn khởi trước tinh thần yêu nước, đấu tranh của nhân dân. Dân
làng đào hầm, cài chông bẫy đánh đuổi những tên lính đi lẻ. Một số thôn
xóm biến thành pháo đài cầm cự với giặc. Với tinh thần yêu nước, dân
chúng lấy tên các anh hùng dân tộc để đặt tên cho các chiến dịch dù hãy còn
khiêm tốn của họ: Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Phan Đình Phùng, Lý Thường
Kiệt, Quang Trung, v.v…
Võ Nguyên Giáp khẳng định “có nhiều sự kiện anh dũng diễn ra trong
những ngày đầu kháng chiến”. Ông nói: “Bộ đội ta đã chiến đấu cực kỳ
dũng cảm. Tinh thần chiến đấu ngoan cường thể hiện tính cách bất khuất của
một dân tộc nhỏ yếu quyết tâm chiến đấu chống một nước đế quốc hùng
mạnh.” Những đêm thức trắng bàn bạc lên kế hoạch tác chiến đã đem lại kết
quả. Các đơn vị bộ đội của Võ Nguyên Giáp đã ghìm chân quân địch đủ để
hậu phương hoàn thành việc chuẩn bị và phát triển các nguồn lực.
Tuy vậy, không ai có thể ngăn được cuộc tiến công ồ ạt của quân Pháp
như nước thủy triều đang dâng lên. Đến cuối tháng 3/1947, Pháp kiểm soát
tất cả các thành phố lớn ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cũng như các
vùng thành thị ở Nam Bộ. Pháp chiếm đóng Hà Nội cũng như nhiều làng
mạc khác và làm chủ được vùng châu thổ sông Hồng. Các trung tâm giao
thông và đường sá nối liền đều nằm trong tay quân Pháp. Quân đội thuộc địa
cố tìm cách trở lại tình hình giống như những năm 1930, chỉ một nhúm thực
dân cũng kiểm soát được hàng triệu người dân Việt Nam từ điểm cực nam
Cà Mau đến biên giới Việt - Trung.
Võ Nguyên Giáp và Đảng Cộng sản đã chuẩn bị khá tốt trong việc rút
lên Việt Bắc. Trong vùng rừng núi đó, theo cách nói của Võ Nguyên Giáp
rừng cây phủ kín như “nhà kính”, họ được che chở để chống lại sự đàn áp và
các cuộc tiến công của Pháp. Địa hình hiểm trở, đường đi lối lại khó khăn,
khí hậu thất thường, Việt Bắc quả là miền đất “không mến khách” đối với
các đoàn quân Pháp từ xa tới. Núi cao từ 600 m đến 1.200 m, nhiều hang