người từ chiến sĩ đến cán bộ chỉ huy, từ lính trơn đến sĩ quan và ai nấy đều
đi đến chỗ tin rằng mình là đáng kể, là cần thiết trong nội bộ đơn vị và dù
chỉ là binh nhì hay sĩ quan mình cũng là bên nhận trong các quyết định về
chủ trương công tác. Đối với các chàng trai từ các vùng sâu vùng xa đến, đó
là một kinh nghiệm rất lớn khuyến khích họ coi trọng hơn nữa những lời
cam kết và những mục tiêu của họ.
Võ Nguyên Giáp rất coi trọng công tác giáo dục chính trị cho bộ đội,
nhờ đó quân đội có được những người lính nhận thức rõ vai trò của họ trong
quân đội, trong xã hội và trong cuộc cách mạng. Vì vậy, quân đội của Võ
Nguyên Giáp hoàn toàn khác với những đội quân lỏng lẻo, chắp vá của bọn
quân phiệt ở miền Nam Trung Quốc hay ở những xứ khác tại phương Đông,
thường rất coi thường dân và ra sức cướp bóc, tước đoạt của dân. Việt Minh
coi dân như anh em một nhà. Mỗi bên có vai trò khác nhau nhưng tất cả đều
cùng cộng tác với nhau trong cuộc đấu tranh chống Pháp.
Trong giai đoạn 1948 - 1950, tình hình chiến trường tạm lắng dịu,
không có những cuộc tiến công lớn, Võ Nguyên Giáp còn tập trung xây
dựng các cơ quan chỉ huy và thanh tra các đơn vị lớn. Ông cải tổ Bộ Tổng
tham mưu, cho tới lúc đó trong số các cố vấn của ông, người ta chỉ suy nghĩ
đặt kế hoạch tác chiến theo kiểu hoạt động du kích. Năm 1950, Võ Nguyên
Giáp cho tổ chức Bộ Tổng tham mưu theo mô hình phương Tây: Phòng I lo
về nhân sự, phòng II (phòng Nhì) về tình báo, phòng III về tác chiến và
phòng IV về hậu cần.
Võ Nguyên Giáp cũng lập các quân khu gọi là liên khu bao trùm khắp
Việt Nam, cho phép ông duy trì sự kiểm soát đối với các đơn vị phân tán
khắp nơi. Mỗi liên khu có bộ chỉ huy quân sự liên khu thâu tóm việc chỉ huy
trên cả hai phương diện quân sự và chính trị. Bản thân liên khu cũng chia ra
liên tỉnh, liên xã, như vậy đảm bảo một sự chỉ huy thông suốt theo chiến
lược từ trên xuống. Trên toàn lãnh thổ có sáu liên khu: Đông Bắc, Tây Bắc,
đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ.