lập ở miền Bắc một nơi “bỏ neo”, một trung tâm hành quân để từ đó các lực
lượng của Pháp có thể xuất phát tiến công lực lượng của Võ Nguyên Giáp.
Thiết lập một đội hình như thế ở Điện Biên Phủ sẽ uy hiếp sườn của Võ
Nguyên Giáp ở phía tây bắc Bắc Bộ, buộc Võ Nguyên Giáp phải phân tán
lực lượng giữa đồng bằng và vùng núi, che chở được nước Lào, gây khó
khăn về tiếp tế cũng như về triển khai lực lượng, cũng nhân dịp này cắt đứt
nguồn lợi về thuốc phiện ở vùng núi Tây Bắc mà Võ Nguyên Giáp đã dùng
để mua vũ khí cho quân đội.
Kế hoạch đó, theo Navarre, có thể chấm dứt chiến tranh trong 18 tháng.
Theo Navarre và các cố vấn của ông, đội quân viễn chinh đang ở tình thế
khó khăn như hiện nay chính là vì phải phân tán lực lượng, rải quân chiếm
đóng hàng nghìn đồn bốt và cứ điểm phân tán khắp nơi trên khắp các mặt
trận để đối phó với chiến tranh du kích của Võ Nguyên Giáp. Kết quả là
quân Pháp thiếu hẳn một đội quân cơ động để chống lại chủ lực của Võ
Nguyên Giáp. Vì vậy, Navarre ra lệnh phải có thêm lực lượng mới tăng viện
khẩn cấp sang Việt Nam. Vào khoảng cuối năm 1953, Navarre chỉ huy tất cả
84 tiểu đoàn trên toàn Đông Dương và ông rút ra kết luận là đã đến lúc
chiếm đóng Điện Biên Phủ, trong một cuộc hành quân mang biệt danh
Castor, triển khai ngày 20/12 và hình như phù hợp với khẩu hiệu được
Navarre dùng để cổ vũ quân sĩ của ông là “luôn luôn giữ chủ động và luôn
luôn tiến công”.
Để kế hoạch thành công, Navarre phải dựa vào hai sĩ quan khác là
Cogny và Castries. Thiếu tướng René Cogny tốt nghiệp Trường võ bị Saint-
Cyr, cựu sĩ quan pháo binh và là phó tướng của Navarre ở Bắc Bộ. Ông văn
võ toàn tài, lại tốt nghiệp cả khoa Chính trị và Luật. Võ Nguyên Giáp và
Cogny là hai tướng lĩnh có bằng cấp cao nhất ở Đông Dương. Cogny đã hai
lần bị Đức bắt làm tù binh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lần đầu vào
năm 1941, ông trốn trại và lần thứ hai vào năm 1943. Cogny lên chức rất
nhanh trong những năm sau chiến tranh cho đến khi được giao chức vụ chỉ