Fayolle không tìm ra cớ gì để nói nữa, mà thực ra thì anh ta không còn
thời giờ nữa. Bởi vì một lần nữa, tiếng kèn ra lệnh tập hợp lại vang lên, một
lần nữa, gươm lại được tuốt ra khỏi vỏ, một lần nữa, họ lại giục ngựa xông
lên tiến thẳng về phía lực lượng pháo binh Áo.
Leo lên mép tường thành, họ phát hiện ra ở phía trước có nhiều khẩu pháo
đang cày xới cánh đồng lúa mì xanh mướt, nhưng khi tiếng kèn xung trận
vang lên, thì họ không thể nào thúc ngựa phá nước kiệu tiến lên được nữa vì
chúng đã yếu đi rất nhiều do phải chuyên chở quá nhiều lần, và thức ăn nuôi
chúng thì chỉ toàn đại mạch. Đối với lính thiết kị, nước đi của ngựa rất quan
trọng. Nếu cứ lắc lư liên tục, tấm kim loại che lưng và bụng cọ xát vào vai,
cổ, háng, họ không chịu được phải cởi bỏ và thế là bị phơi thân trước những
loạt đạn bắn như xối của quân thù vì pháo cứ nã liên tục không dứt cứ như
súng máy, và đạn vãi như mưa phá vỡ đội hình của họ. Tuy vậy, kị binh của
Saint-Didier vẫn tấn công rất chậm dưới mưa đạn rừng gươm. Fayolle nghĩ
rằng anh ta sẽ chạy tới một mục tiêu xác định, nhưng bên cạnh anh, Brunel
lại xông lên trước tiến thẳng vào địa ngục: một quả đạn xé gió cắt phăng mất
đầu Brunel, nhưng vì trái tim vẫn còn đập, nên máu phun ra thành dòng nơi
cổ áo giáp; người kị sĩ không đầu, cứng đơ trên yên ngựa, cánh tay rủ xuống
phía trước, thanh kiếm buông rơi treo lủng lẳng trên sợi dây nối với cổ tay,
con ngựa tiếp tục chạy theo quán tính xô bừa vào đám pháo thủ Áo. Đúng
lúc đó, con ngựa của Fayolle lại bị loạt đạn cắt phăng một chân, quay ngoắt
lại hí lên đau đớn. Fayolle xuống ngựa mặt không hề biến sắc, không để ý
đến những khẩu súng đang điên cuồng nhả đạn. Anh thương con vật, nó mệt
nhoài thế mà vẫn đứng trên ba cái chân còn lại, thè lưỡi liếm vào mặt anh
như nói lời vĩnh biệt. Người lính thiết kị buông mình ngã xuống giữa cánh
đồng lúa mì xanh rờn. Mệt mỏi, hai tay khoanh lại, anh nhắm mắt thiếp đi
mong quên đi cái chết và cái lò nướng thịt này.
* * *