thì không phải chỉ gặp khó khăn mà còn rất dễ bị phát hiện. Do đó, chúng
tôi quyết định sử dụng cả đường sắt. Tư lệnh quân khu ra lệnh cho đoàn tàu
khởi hành rời Ki-ép vào tối 20 tháng Sáu, còn bộ phận chủ yếu hành quân
bằng ô-tô sé chuyển vào sáng ngày hôm sau.
– Còn bộ đội thì sao? – tôi hỏi tham mưu trưởng.
– Mới có lệnh riêng cho cơ quan chỉ đạo tác chiến của quân khu. Còn
đồng chí cần nhanh chóng chuẩn bị toàn bộ các văn kiện về kế hoạch tác
chiến của quân khu, kể cả kế hoạch phòng thủ biên giới quốc gia và chậm
nhất là ngày 21 tháng Sáu phải gửi về Bộ Tổng tham mưu theo đường tàu
hỏa và có bảo vệ chu đáo. Sau đó, đồng chí cùng anh em trong phòng đi ô-
tô theo chúng tôi để chậm nhất là bảy giờ sáng ngày 22 tháng Sáu tới địa
điểm ở Tác-nô-pôn.
Dĩ nhiên, tôi đã nói lên sự ngạc nhiên của mình là bộ tư lệnh đi đến sở
chỉ huy mà không có phòng tác chiến thì nếu xảy ra điều gì sẽ không thể
chỉ huy bộ đội, vì không có trong tay cả các sĩ quan tác chiến lẫn các nhân
viên điện đài. Nhưng đề nghị của tôi là chỉ để lại vài ba sĩ quan với mình,
còn những đồng chí khác sẽ do phó trưởng phòng dẫn đầu lên đường cùng
với Hội đồng quân sự, không được Puốc-ca-ép tán thành, vì sáng 22 tháng
Sáu, phòng tác chiến đã có mặt ở Tác-nô-pôn rồi, còn trước thời gian đó,
chưa chắc đã cần đến.
– Mọi việc cứ theo như kế hoạch, - tướng Puốc-ca-ép khoát tay tỏ ý
không nên mất thời giờ bàn luận nữa.
Tối 20 tháng Sáu, chúng tôi tiễn những người lên đường bằng tàu hỏa, và
trưa hôm sau tiễn những người đi bằng ô-tô.
Sự bình tĩnh cao độ của bộ tư lệnh quân khu, tính thiết thực và chính xác
của cơ quan chỉ đạo tác chiến của phương diện quân khi tổ chức và tập
trung lên đường có ảnh hưởng tốt đến mọi người. Không ai tỏ vẻ lo âu đặc
biệt. Một số đồng chí ở bộ phận hành chính – kinh tế còn nghĩ rằng đây chỉ
là lên đường diễn tập theo kế hoạch, và chậm nhất đến thứ bảy sau, tất cả sẽ
trở về Ki-ép.