đến năm 706 thì lãnh thổ bị chia làm hai nước: Thượng hay Thổ Chân Lạp,
và Hạ hay Thuỷ Chân Lạp.
Năm 802, vua Jayavarman II, một vị vua sáng suốt của Thổ Chân Lạp lên
ngôi. Ông thống nhất hai nước, củng cố hành chánh, đổi tên nước là
Kambuja, tên nguyên thuỷ của Campuchia, dời đô về Angkor, mở đầu một
kỷ nguyên vàng son. Những vị vua kế nghiệp ông đã xây thêm nhiều đền
đài lăng tẩm, nhất là cha con vua Indravarman (877- 900) đã phát triển hệ
thống dẫn thuỷ nhập điền, đào những con kinh rộng hơn cây số, những hồ
chứa nước, mở ra một cuộc “cách mạng xanh” khiến cho đất đai
Campuchia có thể sản xuất lương thực dồi dào cho suốt mấy trăm năm.
Một vị vua nổi tiếng khác, vua Suryavarman II (1113- 1150) đã bành
trướng đất đai đến bán đảo Malaysia, đánh phá Chiêm Thành, và xây dựng
ngôi đền Đế thích Angkor Wat, một công trình kiến trúc nổi tiếng nhất
Đông Nam Á. Sau khi vua Suryavarman II băng hà, thành Angkor bị người
Chiêm Thành tấn công, và vua Jayavarman VII sau đó lên ngôi. Ông có lẽ
là vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Campuchia. Ông hưng binh phục hận
và chinh phục Chiêm Thành, biến nước này thành chư hầu, mở rộng lãnh
thổ. Đồng thời ông đào thêm kinh rạch, xây dựng Đế Thiên Angkor Thom
và đền Bayon, cùng hơn một trăm ngôi nhà nghỉ mát. Nhưng những chiến
công của ông và những công trình vĩ đại đó đã phải trả một giá rất đắt. Dân
chúng phải làm việc như nô lệ để xây dựng và trùng tu cung điện, đền đài.
Trai tráng bị cưỡng bách tòng quân chinh chiến liên miên. Tài nguyên quốc
gia bị kiệt quệ, và ngay sau khi vua Jayavarman VII qua đời, những gì ông
thực hiện được hoàn toàn tan rã.Tuy nhiên, những công trình xây dựng và
những chiến công hiển hách của ông đã trở nên niềm hứng khởi cũng như
mối ám ảnh cho đường lối cai trị cuồng điên của những lãnh tụ Khmer Đỏ
sau này.
Sau khi vua Jayavarman VII qua đời (năm 1228), triều đại Angkor bắt đầu
suy tàn, khởi đầu là nước Chiêm Thành thâu hồi độc lập. Từ đó, người