sau này. Gần như lập tức ngay sau đó có một tiếng uỳnh phía sau tôi, tiếng
thủy tinh vỡ, tiếng gạch đá khắp chung quanh rơi vỡ rầm rầm, vôi vữa trên
trần đổ xuống vỡ tan thành nhiều mảnh trên đầu chúng tôi. Tôi ngã chúi
trên sàn nhà, đập đầu vào nắm cửa bếp lò, bất tỉnh. Vị cha xứ nói tôi mê
man một lúc lâu. Khi tôi tỉnh dậy, xung quanh chúng tôi lại tối mịt. Ông
đang thấm nước cho tôi, mặt ông ướt, về sau tôi biết ông bị chảy máu vì vết
rách trên trán.
Trong một lát tôi không nhớ điều gì đã xảy ra. Rồi tôi dần dần tỉnh lại.
Vết bầm trên thái dương nhức nhối.
Vị cha xứ thì thầm hỏi: “Anh đỡ chưa?”
Cuối cùng tôi trả lời ông. Tôi ngồi dậy.
Ông nói: “Đừng cử động. Bát đĩa sành trong tủ vỡ đầy ra sàn nhà. Anh
cử động là gây tiếng ồn, tôi đoán chúng đang ở bên ngoài.”
Chúng tôi ngồi thật im, tới nỗi gần như không nghe cả tiếng thở của
nhau. Mọi thứ dường như lặng yên chết chóc, nhưng một lần trong khoảng
im lặng đó có vật gì đó gần chúng tôi, vôi vữa hay gạch vỡ, rơi xuống rầm
rầm. Bên ngoài và rất gần, tiếng kim loại lách cách từng hồi.
Một lát sau lại có tiếng lách cách, vị cha xứ nói: “Đó!”
Tôi hỏi: “Ừ, nhưng cái gì vậy?”
Vị cha xứ nói: “Người Hỏa tinh!”
Tôi lại lắng nghe.
Tôi nói: “Không giống như Tia Nhiệt,” và có lúc tôi nghĩ một trong
các cỗ máy chiến đấu khổng lồ đã ngã đè lên căn nhà, như tôi đã thấy một
đứa ngã lên tháp nhà thờ Shepperton.
Tình huống của chúng tôi lạ lùng không thể hiểu, tới nỗi suốt ba bốn
giờ sau chúng tôi vẫn không nhúc nhích cho tới khi hừng đông đến. Rồi
nắng rọi vào, không phải qua cửa sổ vẫn tối đen, mà qua lỗ hổng tam giác