tấm ván bầm cả đầu gối, cuối cùng lội lõm bõm vào ngõ hẻm chạy từ quán
College Arms xuống. Tôi dùng chữ lội lõm bõm vì nước mưa cuốn theo cát
từ trên đồi xuống đã biến thành một dòng bùn lầy chảy xiết. Trong bóng tối
một ông đụng phải tôi làm tôi lảo đảo lùi lại.
Ông ta thốt lên một tiếng kinh hoảng, nhảy nghiêng, rồi bỏ chạy trước
khi tôi kịp hoàn hồn gọi ông. Trận bão lúc này dữ dội tới nỗi tôi hết sức khó
nhọc mới lên đồi được. Tôi lại gần hàng rào bên trái, gắng đi men theo dãy
cọc rào.
Gần tới đỉnh đồi tôi vấp phải một vật mềm. Nhờ ánh chớp lóe, tôi thấy
giữa hai chân mình một đống vải đen và đôi ủng. Tia chớp lấp lánh tắt
ngóm trước khi tôi có thể nhận rõ người đàn ông nằm trong tư thế ra sao.
Tôi đứng cúi xuống ông, chờ ánh chớp kế tiếp. Khi chớp lại lóe lên, tôi
thấy ông là một người cường tráng, mặc y phục rẻ tiền nhưng không luộm
thuộm. Đầu vẹo dưới thân mình, ông nằm bẹp rúm gần hàng rào, như thể
đã bị ném mạnh vào đó.
Cố trấn áp nỗi ghê sợ tự nhiên của một kẻ chưa bao giờ chạm vào xác
chết, tôi khom xuống lật ngửa ông ta lại để sờ ngực ông. Ông đã chết hẳn.
Hình như cổ gãy. Tia chớp lóe lên lần thứ ba, khuôn mặt ông đập vào mắt
tôi. Tôi đứng vội lên. Đó là ông chủ tiệm Chó Đốm mà tôi đã thuê xe.
Tôi rón rén bước qua ông và dấn bước lên đồi. Tôi đi ngang trạm cảnh
sát và quán College Arms về hướng nhà mình. Sườn đồi không bị cháy,
nhưng từ bãi đất công vẫn hắt lại ánh lửa đỏ và khói hồng cuồn cuộn đang
chống chọi với trận mưa đá như trút. Nhờ các tia chớp, tôi có thể thấy nhà
cửa chung quanh mình hầu như không bị hư hại. Bên cạnh quán College
Arms có một đống đen đúa nằm trên đường.
Cuối đường về hướng cầu Maybury có tiếng người nói và tiếng chân
bước, nhưng tôi không có can đảm để gọi hay đi tới phía họ. Tôi mở then
ngoài để vào nhà, đóng cửa, vặn khóa và chốt cửa, lảo đảo tới chân cầu
thang, ngồi xuống. Trí tưởng tượng của tôi đầy những con quái vật bằng
kim loại đang sải bước, và cái xác chết bị ném vào hàng rào.