CHIẾN TRANH KHÔNG CÓ MỘT KHUÔN MẶT PHỤ NỮ - Trang 342

Chú Thích

[1]

Nhà Quốc hội Đức, ở Berlin. (ND). Cuốn sách này được dịch theo bản

dịch sang tiếng Pháp của Galia Ackerman và Paul Lequesne - NXB Acte
Sud, 2015. Những chú thích có ghi (ND) là của người dịch sang tiếng Việt.
Những chú thích ghi (NDF) là của những người dịch sang tiếng Pháp.

[2]

Hệ thống trại tù ở Sibéri thời Stalin. (ND)

[3]

Erich Maria Remarque: Nhà văn Đức nổi tiếng, tác giả “Phía tây

không có gì lạ” và nhiều tác phẩm viết về chiến tranh, đậm tính chất phản
chiến. (ND)

[4]

Đội cận vệ binh chủng đặc nhiệm Đức quốc xã. (ND)

[5]

Nguyên văn: staroste. Trường cộng đồng làng dưới chế độ cũ, được

bầu hay chỉ định. Phát xít Đức đã khôi phục hệ thống nông thôn này trong
những vùng chúng chiếm đóng. (ND)

[6]

Người Nga theo quán Đức, làm cảnh sát cho chúng trong vùng bị

chiếm đóng. (ND)

[7]

Koulak: Phú nông. (ND)

[8]

Huân chương Vinh quang là một trong những khen thưởng quân sự

bậc cao, được lập ra năm 1943. (NDF)

[9]

Vùng lưu đày ở Sibéri. (ND)

[10]

Hệ thống các cấp hàm trong quân đội Nga và quân đội Pháp (và cả

quân đội Việt Nam) không hoàn toàn tương ứng với nhau. Trong khi dịch
tên gọi các cấp hàm của các nhân vật ở đây, chúng tôi chủ yếu dựa theo bản
tiếng Nga, là bản gốc của tác giả. (ND)

[11]

Trong tiếng Pháp người ta gọi là “vớ Nga”; đây là những băng vải

thay vớ, vẫn còn sử dụng trong quân đội Nga. (ND)

[12]

Đây là những ngôi sao gắn trên cầu vai. (ND)

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.