“Thôi lúc này đừng nói thêm gì về Brockhard nữa!” cô nói. “Kể chuyện
em nghe đi.”
Cô vuốt má anh, anh thốt ra tiếng thở dài nặng nề. “Em thích nghe
chuyện gì?”
“Bất kỳ chuyện gì anh thích.”
Những câu chuyện. Đó là cách anh thu hút sự chú ý của cô tại bệnh viện
Rudolf II. Chúng rất khác so với các câu chuyện những người lính khác kể.
Chuyện kể của Uriah thường có nội dung về lòng can đảm, tình đồng đội và
niềm hy vọng. Như có lần anh vừa rời ca trực thì bỗng phát hiện ra một con
chồn hôi trên ngực người bạn thân nhất, nó đang định xé toạc cổ họng cậu
ấy khi cậu ấy đang ngủ say. Khoảng cách lúc đó là gần mười mét, và boong
ke với những bức tường đất đen gần như chìm trong bóng tối. Nhưng anh
không còn lựa chọn nào khác. Anh phải kề súng lên sát má và liên tục nhả
đạn cho đến khi ổ đạn hết sạch. Và con chồn hôi ấy đã trở thành bữa ăn tối
cho họ vào ngày hôm sau.
Có một vài câu chuyện khác như thế nữa. Helena không thể nhớ hết,
nhưng cô nhớ rằng mình đã bắt đầu lắng nghe. Chuyện anh kể rất sống
động và vui nhộn; một vài chuyện cô không chắc liệu mình có tin được
không. Nhưng cô muốn tin vì chúng chính là liều thuốc giải chất độc của
các câu chuyện khác về những số phận không thể cứu vãn, và những cái
chết vô nghĩa.”
Khi con tàu tối om rùng mình và rung lắc xuyên qua màn đêm trên
những đường ray mới sửa, Uriah kể chuyện lúc anh bắn chết một lính bắn
tỉa người Nga trong vùng trung lập. Anh còn liều ra ngoài đó làm lễ chôn
cất theo đạo Thiên Chúa cho tên Bôn sê vích vô thần đó nữa, bằng những
bài thánh ca và đủ cả.
“Đêm đó anh hát hay đến mức!” Uriah nói, “anh còn nghe thấy cả tiếng
vỗ tay từ phía quân Nga.”
“Thật á?” cô cười ồ.
“Còn hay hơn bất kỳ bài hát nào em từng nghe ở Staatsoper đấy.”
“Nói xạo.”
Uriah kéo cô lại sát bên anh hơn, rồi dịu dàng hát vào tai cô.