nó đã một trăm tuổi. Mở cửa sổ, anh có thể ngửi thấy mùi hương bánh ngọt
từ tiệm bánh bên kia phố.
“Helena Mayer sống tại Lazarettegasse,” Fritz thông báo cho Harry khi
anh vào lại trong xe. Anh ta la ó một chiếc xe chuyển làn mà không ra hiệu.
“Bà ấy là một góa phụ có hai đứa con đã trưởng thành. Làm giáo viên
sau chiến tranh cho đến khi về hưu.”
“Anh đã nói chuyện với bà ấy chưa?”
“Chưa, nhưng tôi có đọc hồ sơ của bà ấy.”
Địa chỉ tại Lazarettegasse là một cơ ngơi chắc hẳn đã có thời rất trang
nhã. Nhưng giờ đây lớp sơn đang bị bong tróc trên các bức tường trong
lồng cầu thang rộng. Những tiếng vọng từ bước chân của họ hòa nhịp với
tiếng nước nhỏ giọt.
Helena Mayer đứng tươi cười bên cửa vào căn hộ của bà trên tầng ba. Bà
có đôi mắt nâu rất có hồn, bà lên tiếng xin lỗi về cái cầu thang.
Căn hộ bố trí hơi quá nhiều đồ nội thất, chứa đầy những món đồ lặt vặt
người ta nhặt nhạnh được suốt cả quãng đời họ.
“Xin mời ngồi,” bà nói. “Tôi chỉ biết nói tiếng Đức, nhưng anh có thể
nói với tôi bằng tiếng Anh. Tôi hiểu được khá tốt!” bà nói, quay sang
Harry.
Bà mang vào một khay đựng cà phê và bánh ngọt. “Bánh strudel,” bà
giải thích, chỉ tay vào đĩa bánh.
“Ngon tuyệt,” Fritz nói và tự phục vụ.
“Vậy là bà quen biết Gudbrand Johansen,” Harry nói.
“Vâng, tôi có biết. Chúng tôi gọi anh ta là Uriah. Anh ta cứ nhất định bắt
gọi như thế. Ban đầu chúng tôi tưởng anh ta không hoàn toàn tỉnh táo. Vì
những chấn thương của anh ta.”
“Những chấn thương thế nào?”
“Chấn thương đầu. Và chân nữa, tất nhiên. Bác sĩ Brockhard tính cưa
chân anh ta.”
“Nhưng ông ta đã bình phục, và được chuyển đến Oslo vào mùa hè năm
1944, đúng không?”
“Phải, ý định là vậy.”