những bộ trang phục hiệp sĩ ngã ngựa trông lỗi thời đến lạ kỳ. Tôi ngả
người trên ghế bành và châm một điếu xì gà. Thật tuyệt vời khi được
chễm chệ thoải mái ở nhà mình như thế này và thưởng thức cả thế giới
bày ra trên một sân khấu.
Tôi hơi xấu hổ về sự hèn nhát của mình khi báo cho Jean biết
trong đêm ấy rằng ngày mai tôi sẽ bỏ trốn.
Cô có vẻ bối rối. Bỏ rơi mười bảy triệu người da đen Mỹ để dạo
chơi ở Paris vào tháng Năm, đó là hành động sẽ làm tổn thương uy tín
của tôi. Tôi cứ gắn tấm huân chương Giải phóng và phù hiệu huân
chương Bắc đẩu Bội tinh lên bộ pyjama của tôi, nhưng cô biết quá rõ
rằng những thứ đó đã cũ đến hai mươi lăm năm rồi: tôi là một kẻ has
been. Một kẻ nguyên là. Dù sao cũng không có quyền đem khoe trận
đánh ở Anh quốc để mà chuồn. Vấn đề là ở kia, ở Mỹ. Ở Paris, dù sao,
cũng là người da trắng. Đấy chính xác là điều cái cô Clara tốt bụng ấy
đã nói với tôi mấy hôm trước khi tôi kể cho cô nghe chuyện vợ một
người bạn của tôi ở Paris bỏ anh ta vì anh ta mất việc làm:
- Anh ta than thở cái nỗi gì? Anh ta là người da trắng, đúng
không? Anh ta chẳng thật sự làm sao cả.
Tóm lại, tôi đào ngũ. Tôi không muốn tiếp tục dự những cuộc
họp ở đó người ta làm ra vẻ không biết rằng Abdul Hamid đang có
mặt ở đây là một tên mật thám, rằng cái tổ chức mới do Bombadia,
đầu cạo trọc, đại diện ở đây, chắc hẳn là được F.B.I. tài trợ nhằm mục
đích gieo rắc chia rẽ trong phong trào “chính quyền da đen”; những
cuộc họp ở đó không ai tìm hiểu vì sao bao nhiêu chiến sĩ đấu tranh trẻ
tuổi bị những người anh em da đen của họ giết và theo lệnh của ai.
Nói tóm lại, tôi cho rằng lương tâm tôi có quyền được nghỉ ngơi, và ở
Paris, với mùa xuân của nó, với những chiến tuyến đang nở hoa của
nó, với đạo hiệp sĩ C.R.S., đấy chính xác là những thứ tôi cần để thay
đổi suy nghĩ của tôi.
Tôi sắp va li. Buổi sáng ngày lên đường, tôi cùng con trai đi đến
trại chó và chúng tôi ngồi lại một giờ với con Chó Trắng. Con trai tôi