thảm với ngần ấy đứa trẻ. Sắp tới, ba tỉ người sẽ thiếu nước, một tỉ
rưỡi sẽ thiếu điện, hai mươi năm hay ba mươi năm nữa là cùng. Ấy,
đúng vào lúc mà những đứa con mới của cha sẽ đến tuổi trưởng thành!
Đọc báo sáng nay đi và mày sẽ biết giá một mảnh đất ở
Johannesbourg, bên Nam Phi, là bao nhiêu!”
May cho cả tôi lẫn nó, em gái tôi không trả lời tôi bằng cái câu
người ta vẫn nói trong trường hợp tương tự: Trời sinh voi, trời sinh cỏ!
Và cha tôi cũng vậy.
Bởi vì nếu không tôi sẽ phải nhắc lại với cả hai những gì mà họ vừa
nghe từ miệng tôi, mà tôi thì rất ghét phải lải nhải như thế.
“Cha và em có biết là tôi ghét thậm tệ những vị cha mẹ không biết
làm gì để nuôi một đàn con? Và cả những vị thậm chí chẳng lấy thế
làm lo lắng, mặc xác con cái có được học hành hay không! Tôi ghét
cay ghét đắng sự nghèo đói, nhất là sự khốn khổ, tôi ghét những điều
độc ác mà người ta gây ra cho chính mình, tự tay mình gây ra cho
mình.”
Cha tôi không nghĩ như tôi sao? Chuyện gì đã xảy ra để ông có ý
định lấy vợ mới? Ông muốn bù với người vợ mới những gì đã không
có được khi sống cùng mẹ tôi? Chẳng phải chính ông đã thường nhắc
rằng đẻ lắm con ngày xưa thì được chứ bây giờ thì không? Có phải vì
thế mà bản thân ông đã không có nhiều con, hay do mẹ tôi đã không
còn ham muốn ông nữa vì ông đã tệ với bà?
“Nói cho tao biết, em gái yêu quý, mày làm sao chấp nhận đám cưới
này! Mày không ngạc nhiên khi một phụ nữ có ba mươi tuổi đồng ý
lấy một người hơn cô ta tận ba mươi lăm tuổi? Mày tưởng cha là một
Rudolph Valentino chắc?”
Em gái tôi không trả lời, như thể nó không ngờ là tôi sẽ phát ra
những câu trắng trợn như thế, bằng một giọng tàn nhẫn như thế, như
thể nó quá ngạc nhiên trước sức mạnh của những lý lẽ đã khiến tôi ra
ngồi phơi đầu dưới mặt trời đổ lửa, tóc đẫm dầu ôliu, một ngày 21