và em cuộc là anh sẽ mến giáo sư Henry. Ông ấy gọi tất cả mọi người bằng
tên và thường chửi rủa ầm ĩ trong lớp.”
“Anh không thấy có lý do nào để phản đối,” Alex Barr nói. “Trừ việc
anh phải thú thật với em, Fran. Sẽ có những buổi sáng mà em phải mua cà
phê cho anh. Anh là kẻ cùng quẫn.”
“Em biết anh là kẻ cùng quẫn. Em thấy anh đỏ mặt và em biết anh nói
dối là đã để quên ví. Và do đâu mà anh nghĩ là anh sẽ có tiền để đi xem
phim tối nay?”
“Anh có một kho dự trữ bí mật dành cho những tình huống khẩn cấp,”
Alex mỉm cười đáp. “Đừng lo. Anh sẽ ra mắt với mái tóc chải mượt, cà vạt
trên cổ và tiền trong một bộ đồ tươm tất.”
“Vâng,” Fran nói. “Nếu nó không chất thêm gánh nặng lên bộ đồ tươm
tất của anh, chúng ta sẽ có vũ hội trà thứ ba ở khu nhà Pi Phi, mà em thì
chưa mời ai cả. Em muốn mời anh đến đó?”
“Anh rất vui,” Alex Barr nói. “Anh không giao du nhiều vì...” anh nhún
vai. “Em biết đấy.”
“Em biết,” Fran Mayfield nói, và thân mật nắm lấy tay anh khi họ đi về
phía tòa nhà của khoa báo chí. “Em biết. Và em không chê trách anh đâu.
Đi nào, em sẽ giới thiệu anh với giáo sư. Khi anh quen với ông ấy hơn anh
hãy gọi ông ấy là Skipper, nhưng đừng gọi thế trước khi ông ấy chửi anh
vài lần.”
“Hãy cho anh biết một điều, ” Alex nói khi họ bước lên những bậc đá
màu xám rộng đầy rêu phong của tòa nhà khoa báo chí, “Em biết khá rõ
anh là kẻ vô danh tiểu tốt, và anh chỉ còn vài tháng nữa là ra trường, trong
khi em còn học ở đây vài năm nữa. Tại sao đột nhiên em lại quan tâm đến
anh?”
“Trực giác phụ nữ bảo em rằng anh có tương lai,” Fran Mayfield nói.
“Mà anh không thể nói liệu em có được tính đến trong cái tương lai đó hay
không.”
Có thể lưu ý rằng ở thời điểm đó, năm 1933, ở tuổi hai mươi mốt, Alex
Barr vẫn còn trong trắng, không biết gì về thế giới đàn bà, dù tốt hay xấu.
Lần thứ hai trong buổi sáng đó anh đỏ mặt.