được một con ciervo khốn khổ nào đó với bộ sừng trên đầu. Họ vung tiền
đi bằng cách xem một cậu bé miệng còn hơi sữa trong chiếc quần bó giết
một con bò - ba mươi ngàn người trong một plaza de toros đang chết lây
trong khi cậu bé mặc chiếc áo chẽn vàng và chiếc quần bó phất mảnh vải
đỏ trước con bò tót và chấp nhận khả năng cậu ta có thể mất cả tuổi trưởng
thành của mình. Nếu cậu ta có mất một cái gì, thì đó là sự ngu ngốc.
Và giờ đây chúng ta đang tụ tập cùng nhau trong cái bữa ăn trưa không
bao giờ kết thúc này - Chúa ơi, Gazpacho, gambas, zarzuela, pollo, judias,
filete, ensalada, patatas, pan, flan... cả một lô những thứ chết tiệt, với ba
loại rượu vang trong những cái cốc vại bằng gốm, trước khi chúng ta dùng
đến anis del mono - nhằm tạo ra một loại cảm giác thèm ăn khác để đi tới
trường đấu bò tư nhân xem mội gã cưỡi ngựa xuyên ngọn giáo vào một con
bê. Rồi một lũ say rượu, những kẻ nên đi ngủ trưa sẽ nhào xuống trường
đấu, người chủ sẽ giữ một đầu chiếc áo choàng, còn cô gái đẹp nhất sẽ giữ
đầu kia và họ sẽ chơi trò đấu bò tót với những con bê.
Chỉ là những con bê cái, tất nhiên. Họ không đấu với những con bò đực
nhỏ, và họ chỉ cho những con bò đực nhỏ ba nhát varas, vì họ không muốn
làm mất sự căm hờn của chúng đối với người đàn ông trên lưng ngựa -
người đàn ông trên lưng ngựa mà họ sẽ gặp sau hai năm nữa khi họ còn
chơi mãi và con bê đực nhỏ, đã bị tuyên án về lòng dũng cảm, sẽ đi tới đấu
trường xinh đẹp đó để được trở thành món bít tết. Có thể cho người nghèo,
hoặc có thể được bán trong những cửa hàng thịt như carne de toro - thịt bò
tót - thay vì đơn giản được trở thành carne già.
“Ông biết gì về bò tót?” Chủ nhà lịch sự hỏi. “Ông đã bao giờ trông thấy
corrida chưa?”
“Một ít. Tôi đã từng thấy một vài corrida.”
“Ông có thích họ không?”
“Rất thích. Khi người đó không làm hỏng con bò. Khi cặp sừng không
bị trầy xước. Và không uống thuốc nhuận tràng quá nhiều trước khi con bò
ra khỏi toril.” Tại sao mình lại nói điều ấy lúc này nhỉ? Alex tự hỏi.
Đôi lông mày lại nhướn cong lên.
“Ông đã xem ai?”