lập cập y như cửa sổ vậy, và có thể nghe thấy tiếng rít của máy bay xpitfai
nổi lên trên tiếng ầm ì đều đều của những máy bay ném bom lớn. Giống
đêm trước, nửa giờ sau tiếng ầm ì tắt hẳn, và tiếng súng cao xạ cũng lặng
dần khi lực lượng đáng kể của bọn phát xít quay về Hà Lan.
“Một vố ác đấy,” người đàn ông cạnh Alex nói. “Tôi không ngạc nhiên
khi chúng tập trung lâu thế vào khu cảng. Đó là khi chúng quăng thẳng một
trái xuống quán Café de Paris mà một gã cảm thấy khó chịu. Lũ chó chết
này thật chẳng có lương tâm. Đấy là bệnh của bọn Đức.”
Khi còi báo yên vang lên Alex bước đi trong đêm, một lần nữa lại thấy
London đổ nát và bị lửa bao vây. Xe cứu thương rú còi inh ỏi và các đội
cứu hộ đã sẵn sàng vào việc.
Anh đi qua những đống gạch vụn về hướng Hill Street, vẫn chưa nắm
chắc địa hình của London, và sau vài khối nhà, anh nghĩ mình đã lạc
đường. Nhưng không, lửa sáng đủ để anh nhìn thấy tấm biển Hill Street.
Anh đã nhận ra góc phố.
Đôi chân đưa anh đi thêm vài bước về hướng đêm qua, trong bóng tối,
và đột nhiên tim anh thắt lại.
Không có chuông để bấm. Không có cửa để gõ. Không có ngôi nhà sau
khung cửa. Không có cô gái. Sẽ chẳng bao giờ có cô gái, chẳng bao giờ có
cô gái ấy.
Sáng hôm sau Alex tỉnh dậy, miệng đắng nghét toàn mùi rượu wishky.
Cô ả có đôi môi bự son mà anh nhặt được ở đâu đó không thể nhớ ra nổi đã
đi khỏi. Gối anh ướt đẫm, như anh đoán, nước mắt.