mãnh và bụng đói thì ăn cắp vặt một tí, nhưng ăn cắp mà vui vẻ, hồn nhiên
như con mèo hay con chim sẻ. Chú cười khi người ta gọi chú là “nhãi ranh”
nhưng tức giận khi người ta gọi chú là “mất dạy”. Chú không có nhà ở,
không có bánh ăn, không có lửa sưởi, không có ai yêu, nhưng chú vui
sướng vì chú tự do. Dân quanh vùng thường gọi chú là Gavroche.
Nhưng dù bị cha mẹ “mang con bỏ chợ” như vậy, đôi khi cứ hai, ba
tháng chú lại nói: “Chà! Mình phải viếng thăm ông bà già một chút chứ!”
Thế là chú rời đại lộ, bỏ rạp xiếc, ô Saint-Martin, đi xuống bờ sông, qua
cầu, ra ngoại ô đến khu Salpêtrière, đến đúng cái số nhà ghép 50-52, cái nhà
nát Gorbeau.
Cái nhà ấy thường vắng vẻ, bỏ không và luôn mang cái biển “có phòng
cho thuê” nhưng ít khi có người ở. Những người ở đây, như lệ thường ở
Paris, hoàn toàn không quen biết nhau, không có quan hệ gì với nhau, tất cả
đều thuộc hạng nghèo khổ.
Những người nghèo khốn nhất trong đám những người thuê này là một
gia đình bốn mạng: một người cha, một người mẹ và hai cô con gái đã khá
lớn. Cả bốn người ở chung trong một cái buồng tồi tàn. Cái gia đình ấy
thoạt nhìn không có vẻ gì đặc biệt ngoài sự túng thiếu cùng cực. Người cha
khi thuê buồng báo tên mình là Jondrette [1]. Sau khi đã dọn nhà, lão
Jondrette đã nói với mụ cho thuê nhà đồng thời là mụ gác cổng:
- Bà này! Nếu có ai đến hỏi một người Ba Lan, một người Ý hay một
người Tây Ban Nha ở đây thì bà chỉ tôi đây nhé!
Đó chính là cái gia đình của chú bé khốn khổ và vui vẻ ấy. Chú bé trở về
đây và thấy sự nghèo khổ, cái tiều tụy thảm hại ấy và đáng buồn hơn nữa là
không có một nụ cười. Bếp lò lạnh tanh, lòng người cũng lạnh tanh. Khi
chú bước vào buồng thì người ta hỏi: “Mày ở đâu về?” Chú trả lời: “Ở
ngoài đường”. Khi chú đi nhà lại hỏi: “Mày đi đâu?” Chú trả lời: “Đi ra
đường”. Mẹ chú lại bảo: “Thế mày đến đây làm gì?” Mỗi lần cũng chỉ từng