Bảy năm sau, khi tôi vào Sài Gòn thi đại học, xe chiếu bóng thùng như
chiếc xe cà tàng của chú Hai Ngon vẫn còn lác đác trước các cổng trường
tiểu học. Và những ngôn ngữ đường phố như “quỷ kiến sầu”, “tổ sư bồ đề”,
“bành ki nái”, “mút chỉ cà tha”, “hầm-bà-lằng-xán-cấu”... vẫn còn thông
dụng trong các cuộc tán gẫu hằng ngày.
Bây giờ, bắt gặp ngôn ngữ đối thoại đó trong truyện, tôi không khỏi mơ
màng nhớ lại một thời thơ dại, thời mà chính tôi cũng ăn nói “hầm-bà-lằng-
xán-cấu” không thua gì tụi thằng Ti.
3 . Điều thứ hai khiến tôi thú vị với câu chuyện của Lê văn Nghĩa là
những điều anh viết rất gần gũi với tôi. Bối cảnh trong câu chuyện của anh
xảy ra ở quận 6 - là nơi tôi có bốn năm gắn bó. Tôi làm Chủ nhiệm Câu lạc
bộ thiếu nhi quận 6 hai năm. Hai năm tiếp theo tôi chuyển sang dạy học ở
trường Bình Tây là ngôi trường các nhân vật trẻ con của anh đang theo học
(năm 1966 còn là trường tiểu học) - ngôi trường mà con Hồng, người kể lại
câu chuyện này, ngồi mài đũng quần suốt năm năm ở đó. Rồi trường Phú
Định ở phường 13 bây giờ...
Tôi đã bao nhiêu lần đi ngang Á Đông tửu lầu (chưa vô lần nào vì thời
đó còn nghèo), ngày ngày đạp xe qua cầu Palikao hay cầu Bình Tiên để đi
làm hoặc đi dạy. Những con đường thân quen Phạm văn Chí, Lê Quang
Liêm, Ngô Nhân Tịnh, Phạm Phú Thứ... tôi đọc truyện Lê văn Nghĩa tới
đâu những ngả phố góc đường đó hiện ra mồn một trong tâm trí tôi tới đó.
Một điểm đặc biệt nữa trong truyện Chú chiếu bóng... là sự xuất hiện
các nhân vật người Hoa. Cho đến hôm nay, người Hoa vẫn sống đông nhất
ở quận 5, quận 6. Tôi đi làm ở quận 6 và sống ở quận 5, trong một chung cư
có 90 % là người Hoa, hằng ngày đụng đầu với hàng xóm A Lìn, A Mãnh,
A Phò vẫn toét miệng cười chào “Chủ xành” hoặc thăm hỏi “Xực phàn
mì?”. Vì vậy mà đọc những câu như “lượng co phảnh mìn dách co bạc xỉu”,
“hắc xịt xập hù” trong truyện Lê văn Nghĩa, tôi hiểu ngay, không cần...
phiên dịch. Cảm giác thân thuộc đó thật lâng lâng khó tả!