Điểm mấu chốt của vấn đề là thực tế tôi đã nhấn mạnh trong suốt
lập luận của tôi, rằng những bằng chứng tuyệt đối không có giá trị đối
với phần lớn niềm tin của chúng tôi, nhưng thiếu một bằng chứng
như vậy thì cũng không có lí do để làm ngưng lại niềm tin. Điều này
là bởi vì có thiếu một bằng chứng tuyệt đối thì chúng ta vẫn có thể có
bằng chứng áp đảo hoặc một lời giải thích mà nó tốt hơn nhiều so
với các lựa chọn thay thế. Khi những căn cứ cho niềm tin là sẵn có
thì chúng ta không cần đức tin. Điều đó không phải là đức tin để biện
minh cho niềm tin của tôi rằng uống nước sạch, và nước sạch là điều
tốt cho tôi, nhưng đó là bằng chứng. Không phải đức tin nói với tôi
rằng không nên nhảy ra khỏi cửa sổ của tòa nhà cao tầng, mà đó là
kinh nghiệm.
Nếu chúng ta muốn nói đức tin có liên quan đến những ví dụ như
vậy, vì cam kết với bất kì niềm tin hoặc hành động nào không được
chứng minh là đúng thì đòi hỏi đức tin, thì chúng ta thực sự đang
cướp đi ý tưởng đức tin với đặc tính riêng biệt của nó. Nếu đó là đức
tin thì không có gì để phân biệt các vấn đề đức tin với các niềm tin
khác. Tất cả mọi thứ trở thành vấn đề đức tin, ngoại trừ có lẽ niềm tin
vào một vài chân lí hiển nhiên như 1 + 1 = 2.
Một số người có thể chào đón điều đó. Tuy nhiên, phương pháp
này cũng đưa ra một vấn đề mới. Nó phải cho phép các mức độ đức
tin, vì rõ ràng là cần ít đức tin hơn để tin vào khả năng làm mát của
nước hơn là khả năng chữa lành của Chúa. Nhưng rồi quay lại với
những người vô thần và nói rằng niềm tin của họ cũng "chỉ là vấn đề
đức tin" thì sẽ trở thành một sự phản đối trống rỗng. Nếu mọi thứ đều
là vấn đề đức tin thì đây là một thực tế tầm thường. Để làm cho nó
không tầm thường, chúng ta cần phải chỉ ra niềm tin của người vô
thần yêu cầu ít nhất cũng nhiều như đức tin của những tín đồ tôn