bây giờ và lại còn được ăn học đến nơi đến chốn nữa. Cái thân một người
con quan lúc bấy giờ thật đã khốn cực đủ trăm phần.
Ông cụ Hồ Viễn vẫn nói và uống. Càng nói chuyện, cụ càng uống
rượu; càng uống rượu, cụ càng được nói chuyện nhiều. Mỗi lúc hỏi gặng,
cậu Chiêu lại như tỉnh cơn mơ nhỏ.
- Dạ?
- Thưa vâng.
Rồi cậu Chiêu lại vẫn không quên cái cảnh màn trời chiếu đất của
ngày bé bỏng. Dưới cán màn trời triền miên những kinh động ngờ sợ, ánh
sáng tối và ẩm ướt của rừng tị nạn đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm
chùm tóc mới vừa tơ mà đã nhuộm màu tang. Trên cái chiếu đất dằng dặc
mùi côi cút, một cặp chân có khóa bạc vòng vàng đang in đôi gót đỏ như
son lên cái rêu nhầy nhờn, của ngày đau khổ và lần lút. Có những ngày liên
tiếp cậu Chiêu và chị- cô Tú –phải nấu củ rừng ăn với cháo chó,-những con
chó trung thành cùng theo chủ vào ruột rừng Hưng Hóa.
- Cậu còn nhớ chỗ để ngôi mộ cụ nhà đấy chứ?
Cậu Chiêu choàng ngồi thẳng mình lên và ngừng tay quạt ruồi chờn
vờn trên mâm cơm, vội thưa với cụ Hồ Viễn:
- Dạ thưa cụ, cháu nhớ lắm. Có ai mà lại quên được mồ mả cha ông.
Vả chăng, vẫn còn có tấm bia ở đấy.
- Ờ. Đấy là xứ Đồng Cồn phải không? Từ ta đây mà xuống dưới xứ
Đồng Cồn thì đi như thế nào nhỉ?
- Dạ như chúng tôi đi bộ thì mất trọn một ngày, nếu không nghỉ ở dọc
đường. Nhưng cụ có đi thì phải thuê cáng. Và đi cáng đồng ba thì tinh mơ
đi, độ quá giờ ngọ đã tới.