hoạch ong, giao mười thùng ong lứa mới cho ông láng giềng. Bà lão muốn
giấu số tổ ong sinh thêm từ chỗ đã bán, nhưng Elisei cũng tự biết tổ nào
chia đàn, tổ nào không sinh thêm, và giao cho láng giềng không phải mười
mà là mười bảy tổ. Xếp đặt xong xuôi, ông sai con trai đi kiếm thêm việc
làm thuê, còn mình thì ngồi đan giày cỏ cho mùa đông và đục lỗ cho các
thùng nuôi ong mới.
VIII
Vào ngày mà Elisei ở lại nhà của những người ốm, Efim chờ bạn. Ông
đi không xa lắm và dừng lại ngồi xuống. Đợi mãi, đợi mãi, thiếp ngủ rồi
thức dậy, lại ngồi thêm tí nữa vẫn không thấy ông bạn đâu. Ông đảo mắt
tìm kiếm khắp nơi. Cho đến lúc mặt trời lặn cũng vẫn không thấy Elisei.
“Không biết ông ấy có đi ngang qua chỗ mình hay không, hay là có ai đó
chở ông ấy qua, mà không nhìn thấy mình trong lúc mình ngủ. Nhưng ông
ấy không thể không thấy mình được. Trên thảo nguyên từ xa cũng trông
thấy rõ. Giờ mà mình quay ngược trở lại, còn ông ấy lại đi tiếp ở phía trước
thì càng ở xa nhau hơn. Thôi mình cứ đi tiếp, đến lúc nghỉ đêm sẽ gặp
nhau” – ông nghĩ.
Efim vào một làng, nói với người canh gác rằng nếu có ông già nào đi
tới thì dẫn ông ấy đến cùng một nhà chỗ ông ở giúp. Elisei cũng không đến
ngủ đêm ở đó. Efim tiếp tục đi, hỏi han tất cả mọi người: có trông thấy một
ông già hói đầu không? Không ai trông thấy cả. Efim rất ngạc nhiên và
đành đi một mình.
“Rồi sẽ gặp nhau đâu đó ở Odessa hoặc trên tàu” – và ông thôi không
nghĩ ngợi nữa.
Dọc đường ông gặp một người hành hương. Người hành hương này
mặc áo thụng kiểu thầy tu, để tóc dài, từng ở Athos
thứ hai. Họ gặp nhau ở quán trọ đêm, trò chuyện và ra đi cùng nhau.
Họ đến Odessa bình an. Ba ngày chờ tàu thủy. Nhiều người hành
hương cũng chờ tàu, họ đến từ nhiều miền khác nhau. Efim lại hỏi thăm về
Elisei nhưng không ai thấy ông ấy cả.