một trái pháo nào đó đã phá tan phòng giảng, những hàng ghế bị bắn tung
đi khắp nơi, tan nát vặn vẹo nhưng bàn thờ thì hãy còn nguyên vẹn.
Cơn gió rít lên quanh chúng tôi. Chuông ngân. Tôi nhướng mắt về gác
chuông và thấy sợi dây treo chuông lung lay qua lại, lên xuống một cách dễ
sợ. Tôi quay lại nhìn ông lão. Ông ta nhún vai.
Tôi hỏi:
“Cái chuông này cứ để thế sao?”
“Cái chuông”, ông ta thì thào, mắt nhắm lại.
“Các ông không có ai lo đến nó sao?”
“Tại sao? Tôi không thấy có hại gì hết”. Ông già dụi mắt nói. “Không ai
đụng đến nó cả. Chính gió rung chuông đấy”.
“Nhưng những người có trách nhiệm về nhà thờ này phải làm một cái gì
chứ?”
“Người ta không bước lên gác chuông được. Cầu thang hư hết còn bậc
thang để leo lên thì rất nguy hiểm. Tháp chuông có thể đổ bất cứ lúc nào”.
“Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng các ông phải làm một cái gì chứ?”
“Chúng tôi đang đợi”. Ông già lẩm bẩm: “Tất cả chúng tôi đều đợi vị
mục sư trở về với chúng tôi. Một ngày gần đây thôi. Chúng ta đang thắng
trận mà, người ta bảo thế. Khi ông ấy trở về, rất có thể ông ấy sửa lại nhà
thờ”. Ông ta nhìn tôi, ánh mắt thoáng đau khổ. “Và ông ấy cũng làm lại cả
gác chuông nữa, ai biết được?”
Tôi hỏi:
“Ông có biết những gì đã xảy ra cho ông ấy không?”
“Chúng tôi không biết”, ông ta đáp. “Mà có chứ, có, nhưng chúng tôi
không chắc. Không ai biết được chuyện gì đã xảy ra cho ông ấy. Ông bị
quân Bắc Hàn bắt đi trước khi chiến tranh bùng nổ. Đó là điều cuối cùng
chúng tôi biết về ông ấy. Và chúng tôi bảo nhau: Đừng lo, ông sẽ trở về.
Một ngày gần đây. Vâng, một ngày rất gần đây. Ông ấy sẽ trở về”.
Tôi vội vã lặp lại niềm hy vọng của ông già. “Vâng, một ngày gần đây”.