Tối hôm đó, tại CIC, tôi được chỉ thị chính thức rời bỏ Bình Nhưỡng vào
sáng hôm sau. Tôi trở lại nhà mục sư Shin và được biết ông đã đến nhà thờ.
Tôi gặp ông ở đây, đứng trước tín đồ, Thánh kinh mở trên tay, hai bên có
hai ngọn nến đặt trên một cái bàn nhỏ. Đám tín đồ quỳ trước mặt ông. Phía
sau họ là những người tị nạn chen chúc. Thấy tôi đứng im lặng giữa đám
đông, ông đặt Thánh kinh xuống và tiến lại.
Tôi nói với ông tôi được lệnh rời khỏi Bình Nhưỡng hôm sau.
Ông thì thầm: “Thế nghĩa là những gì truyền đơn nói không đúng sự
thật”.
Ông chậm chạp nhìn đám tín đồ và những người tị nạn xung quanh.
Tất cả những con mắt trong nhà thờ dường như đều dán chặt lấy tôi. Tôi
buông thõng: “Chúng ta đã thua trận”.
“Tạm biệt Đại úy. Chúc ông đi đường bình an”. Ông đưa tay nhưng tôi
không bắt. “Tạm biệt, tôi phải tiếp tục làm lễ”.
Ông quay đi nhưng tôi giữ ông lại, hiểu rõ là tất cả mọi người đều đang
đưa mắt theo dõi từng cử chỉ của chúng tôi.
“Hãy giúp tôi!” – ông nói – “Hãy giúp tôi can đảm! Hãy giúp tôi can
đảm để nói tiếng từ biệt ông!”.
“Mục sư hãy bảo họ đi khỏi đây. Hãy bảo họ chúng ta không chiến
thắng. Hãy bảo họ chúng ta sẽ không chống giữ thành phố!”
“Họ đều biết cả rồi”.
“Thế tại sao họ không đi?”
“Liệu họ có thể đi được bao xa? Liệu họ có thể chịu đựng đau khổ thêm
được bao lâu nữa? Những người trẻ đã đi hết rồi, chỉ còn người già cả bệnh
tật, đàn bà trẻ con – họ quá yếu!”
“Còn ông?”
“Vị trí của tôi là ở bên cạnh họ. Nếu không có ai khác thì chính tôi phải
làm cho họ tin rằng Chúa chăm nom họ và tôi cũng chăm nom họ. Thôi từ
biệt Đại úy”.