khăn rồi và tôi không muốn làm phiền họ. Các ông đừng lo gì cho tôi cả.
Phòng này tôi thấy tiện nghi quá rồi”.
Đại tá Chang đáp: “Phải, bọn quân nhân chúng mình phải tự lo lấy thân”.
Ông quay sang tôi: “Vả lại, ông ấy quen biết nhiều lắm ở thành phố này.
Đại úy có biết ông ấy từng có một ngôi nhà thờ ở đây trước chiến tranh
không? Và đó cũng chính là lý do tại sao tôi quen ông ấy đấy”.
“Chính Đại tá Chang đã cứu sống tôi đấy Đại úy ạ?”
“Lúc đó – khoảng một năm rưỡi về trước phải không Tuyên úy? – Hồi
đó tôi phụ trách một hệ thống tình báo quân đội tại khu vực Bình Nhưỡng
và ông bạn đây là một tay đắc lực vô giá của chiến dịch ấy. Đại úy có biết
ông ấy liều mạng hơn tất cả những nhân viên do tôi gởi đến đây không?
Chính tôi phải ngăn cản ông ấy bớt mạo hiểm lại đấy”.
Tuyên úy Koh xua tay: “Thôi thôi đừng nói tới chuyện ấy nữa, tôi chỉ
làm những gì mà lương tâm tôi bảo phải làm, thế thôi”.
Đại tá Chang cười: “Đại úy biết không? Tôi đã phải sai người bắt cóc
ông ấy đấy. Đại úy tưởng tượng xem, nhân viên của tôi làm ông ấy biệt
dạng ở Bình Nhưỡng”.
Vầng trán của người Tuyên úy đột nhiên nghiêm lại. “Không, thật ra
thì…”
Đại tá Chang không hề để ý đến lời phản đối của ông: “Sự thật, quân của
Bắc Hàn đã đánh hơi biết chiến dịch của chúng tôi. Tôi biết được điều đó
nhờ một tên gián điệp hai mang mà chúng tôi đã gài sẵn từ lâu trong số
phản gián của chúng. Tất cả xảy ra quá nhanh và tôi chỉ kịp gọi Tuyên úy
rút lui. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi ông ấy không nhận lời bỏ chạy. Quá
kiêu hãnh, Đại úy hiểu chứ. Tôi bèn bắt cóc ông, có thể nói như vậy, và lôi
về miền Nam”.
Tuyên úy Koh nhìn chăm chăm vào Đại tá Chang. Viên Đại tá nhún vai:
“Tôi không thể để chúng giết ông được. Ông quá giá trị để thành một người
tuẫn giáo”.
“Tuẫn giáo? Nghĩa là có những người khác bị nạn?” – Tôi hỏi.
Đại tá Chang xua tay: “Thôi nói chuyện cũ như thế đủ rồi”.