đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng quản
ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về kinh chịu án tử
hình.
Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: "Về bảo chủ ngươi, tối
nay, lúc nào lính canh trại nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc
xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng
ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới
viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta
thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết
đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như
vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ"
Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên
vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một
buồng ngục tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi
phân chuột, phân gián.
Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của
một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm
lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa.
Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ
trên tấm lụa trắng tinh căng thẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một
chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô
chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng
chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn
bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo:
- Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này
không phải là nơi để treo những bức lụa trắng trẻo với những nét chữ
vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời
con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi